Wave

Giải SBT Ngữ văn 10 kết nối bài 2: Vẻ đẹp của thơ ca (Đọc và Thực hành tiếng Việt)

Giaibaitapsgk cung cấp lời giải BT 10 Kết Nối Tri Thức giúp các em rút ngắn thời gian tóm tắt nội dung bài học, đánh dấu kiến thức trọng tâm. Dựa vào đó có thể nhanh chóng hoàn thành bài tập về nhà cũng như câu hỏi trong sách BT 10 Kết Nối Tri Thức. Việc thiết kế nội dung lời giải vở bài tập lớp 10Kết Nối Tri Thức theo từng bài, từng trang giúp các em nhanh chóng tra cứu đáp án.

Hướng dẫn giải bài 2: Vẻ đẹp của thơ ca (Đọc và thực hành tiếng việt ) SBT ngữ văn 10 tập 1. Đây là sách bài tập nằm trong bộ sách "Kết nối tri thức" được biên soạn theo chương trình đổi mới của Bộ giáo dục. Hi vọng, với cách hướng dẫn cụ thể và giải chi tiết học sinh sẽ nắm bài học tốt hơn.

Đọc và Thực hành tiếng Việt 

Bài tập 1. Đọc lại ba bài thơ hai-cư (haiku) trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 45) và trả lời các câu hỏi:

1. Bạn đã gặp những “thách thức” nào khi đọc, cảm nhận chùm thơ hai-cư của Ba-sô (Basho), Chi-y-ô (Chiyo), Ít-sa (Issa)? Vì sao những điều bạn vừa nêu có thể được gọi là “thách thức"?

2. Nếu ví mỗi bài thơ như một bức tranh không lời, theo bạn, những bức tranh này thuộc loại nào trong số các loại tranh mà bạn đã biết hoặc nghe nói tới?

3. Khi phân tích hay phát biểu cảm nhận về các bài thơ hai-cư nói trên, thường bài viết, bài nói dài gấp nhiều lần độ dài vốn có của bài thơ. Hiện tượng này gợi lên ở bạn suy nghĩ gì?

4. Hãy xác định mối liên hệ giữa ba hình ảnh được gợi lên từ ba dòng thơ trong bài hai-cư của Ba-sô. So với hai hình ảnh đầu tiên, hình ảnh sau cùng có vị trí như thế nào?

5. Phân tích ý nghĩa của phát hiện “Dây gàu vương hoa bên giếng” trong bài thơ của Chi-y-ô đối với chính nhà thơ và người đọc.

6. Làm rõ những mối tương quan đa chiều giữa các đối tượng được nhắc đến trong bài thơ của Ít-sa.


1. 

- Khi đọc, cảm nhận chùm thơ hai-cư, em bắt gặp những “thách thức” đó là: Bài thơ ít chữ, gần như bản thân phải cố gắng tưởng tượng mới mới có thể hiểu được. Các hình ảnh trong thơ không hiện rõ đặc điểm mà chỉ được nhắc đến tên…  Hay các dòng thơ nhìn qua như rời rạc, thiếu vắng phương tiện kết nối giữa các hình ảnh, đòi hỏi độc giả phải làm đầy các khoảng trống hay những điểm trắng để phát hiện ra mỗi liên hệ giữa chúng.

- Những điều em vừa nêu được gọi là “thách thức” vì thông thường, khi tiếp xúc với thơ ca Việt Nam cũng như một số dòng thơ khác ở nước ngoài, hình ảnh thơ luôn hiện lên có đặc điểm, âm thanh, mùi vị… và câu chữ trong thơ tuy cô đọng như có vần, người đọc dễ dàng liên tưởng.

2. Theo em, những bức tranh này thuộc loại tranh thủy mặc. Đó là một thể loại hội hoạ phổ biến trong nền văn hoá nghệ thuật truyền thống ở các nước Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam và là loại tranh chú trọng “thần” hơn “hình”, người vẽ chỉ sử dụng vài nét chấm phá để gợi sự liên tưởng cho người xem bàn luận.

3. 

- Đây là hiện tượng cho thấy những tầng ý nghĩa của các bài thơ hai-cư rất phong phú, không bị giới hạn bởi số câu chữ ít ỏi.

- Hiện tượng này ngầm cảnh báo khả năng suy diễn quá xa về ý nghĩa các bài thơ hai-cư với sự rườm rà của lời bình.

4. Mỗi dòng thơ là một hình ảnh riêng. Những tưởng là những hình ảnh riêng lẻ nhưng khi nhìn tổng quan, hình ảnh cành khô, hình ảnh cánh quạ và hình ảnh chiều thu lại có mối liên hệ với nhau. Một bức tranh chiều thu hiện lên trong buổi chiều tĩnh lặng. Trên cành cây khô, đôi chân nhỏ bé của con quạ đáp xuống rồi đứng im. Chiều thu vừa như một bối cảnh nền vừa như kết quả cuối cùng có được hay thần thái toát lên của bức tranh - thơ, khi trên cành khô, một cánh quạ từ đâu đáp xuống, im lìm. Theo góc nhìn khác, trong bài thơ chỉ có hai hình ảnh đúng nghĩa, được “vẽ” theo lối điểm xuyết, còn chiều thu chỉ là tên gọi của một trạng thái tâm hồn mà nhân vật trữ tình muốn hướng đến hay đã đạt đến, một khi đã chủ động gạt hết mối bận tâm về những dáng vẻ (hình tướng) luôn thay đổi của vạn vật.

5. Trong bài thơ của Chi-y-ô, dòng thứ hai không đơn thuần miêu tả một hiện tượng mà chủ yếu nêu lên một phát hiện. Từ dòng này, người đọc vừa nhận ra hình ảnh do thị giác nhà thơ “chụp” lại, vừa nắm bắt được những gì đang diễn ra trong tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ. Đó có thể là một chút ngỡ ngàng, hân hoan hay là một thoáng phân vân, bối rối. Tất cả hợp nhất với nhau, làm cho hai dòng thơ trước và sau đó bị “nhiễm điện” để cùng truyền đạt một ý tưởng hay một cảm nhận xuyên suốt. Đối với tác giả, phát hiện về “Dây gàu vương hoa bên giếng” đã làm bật nảy ý thơ, tạo nên cấu trúc vận động của bài thơ. Chính nó khiến nhân vật trữ tình quyết định “giữ nguyên hiện trạng” dây hoa quấn quanh dây gàu để sang nhà bên xin nước. Tác giả đã gợi cho người đọc cảm nhận về một con người nhạy cảm và có tình yêu với thiên nhiên. Đồng thời giúp chúng ta nhận ra được mối liên kết giữa người với vật.

6. Mối tương quan:

- Sự sắp xếp trong mối tương quan giữa con ốc nhỏ tí với núi Phu-gi: một bên là sự nhỏ bé còn bên kia là sự to lớn, hùng vĩ.

=> Tương quan giữa cái cực tiểu và cái cực đại. 

- Hình ảnh con ốc bò chậm chạp nhưng như thực hiện hoạt động trèo lên núi Phu-gi: hiện thực với mục tiêu to lớn được đặt ra.

=> Tương quan giữa khả năng hiện thực và mục tiêu to lớn đặt ra. 

- Con ốc bò lên núi Phu-gi: thời gian và không gian.

=> Tương quan giữa thời gian và không gian. 

-  Hình ảnh con ốc, núi Phu-gi phản ánh đến con người trong thế giới rộng lớn: con người với vũ trụ.

=> Tương quan giữa con người với muôn vật trong vũ trụ. 

Như vậy, với bài thơ của Ít-sa, tuỳ vào trải nghiệm và nhận thức của mình, từng người đọc cụ thể sẽ tìm được những điều tâm đắc riêng. Tuy nhiên, đặt bài thơ vào trong mạch suy tư, chiêm nghiệm của các bậc thầy thơ hai-cư, không nên cảm nhận bài thơ ở khía cạnh hài hước (do ngôn ngữ của bản dịch có thể gợi lên). 

Bài tập 2. Đọc lại văn bản Thu hứng trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 47 – 48) và trả lời các câu hỏi:

1. Hãy nêu cảm xúc của bạn khi đọc bài thơ Thu hứng. Cho biết lí do bạn có cảm xúc như vậy.

2. Xuất phát từ nghĩa của từ“hứng” trong nhan đề bài thơ, hãy tìm và giải thích nghĩa ba từ ghép Hán Việt có chứa yếu tố này.

3. Theo nguyên văn, nhan đề Thu hứng có thể được dịch theo nhiều cách: “Cảm xúc về mùa thu” (mùa thu là đối tượng của xúc cảm); “Cảm xúc trong mùa thu” (mùa thu là bối cảnh thời gian xuất hiện cảm xúc);... Căn cứ vào bản dịch trong SGK, theo bạn, người dịch đã hiểu nhan để theo cách nào?

4. Xác định và nêu nhận xét về mô hình luật bằng trắc của bài thơ.

5. Chỉ ra hiện tượng đối về ý trong liên thơ thứ 2 và thứ 3, phân tích tác dụng của nó.


1. 

- Các trạng thái cảm xúc, cảm giác có thể nảy sinh từ hiệu ứng của tác phẩm: Cảm xúc u buồn, xa vắng trước khung cảnh mùa thu hiu hắt, tàn tạ; cảm giác bất an về sự nhỏ bé, cô đơn của con người trước vũ trụ rộng lớn, thiên nhiên mùa thu rợn ngợp; cảm xúc buồn nhớ quê hương trong hoàn cảnh tha hương, trước cái lạnh lẽo của mùa thu;...

- Lí do: Bài thơ nổi bật với cảnh sắc thiên nhiên và tâm trạng thi sĩ. Người ta vẫn thường nói, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, có lẽ thế mà khi đọc “Thu hứng”, đứng trước nỗi nhớ quê da diết, thế sự còn ngổn ngang mà dưới con mắt của người viết, cảnh mùa thu vừa hiu hắt vừa ảm đảm.

2. 

- “Hứng" có nghĩa là cảm xúc, trạng thái tinh thần khởi dậy mạnh mẽ ở trong lòng.

- Từ ghép Hán Việt có chứa yếu tố “hứng; ví dụ: cảm hứng, hứng thú,... Tra từ điển để tự giải thích nét nghĩa cơ bản của các từ vừa tìm được.

+ Cảm hứng: sự thay đổi tâm lí và cảm xúc bên trong tạo điều kiện cho sự sáng tạo được bộc phát.

+ Hứng thú: thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó.

+ Hào hứng: sự phấn khởi, hăng hái vì cảm thấy ham thích cái gì đấy.

3. Người dịch đã hiểu nhan đề theo cách tổng hợp: đó vừa là xảm xúc về cảnh mùa thu đồng thời là cảm xúc của chính người viết trước bức tranh thu.

4. Xác định mô hình luật bằng trắc: Bài thơ tuân thủ đặc điểm của thơ Đường luật.

T   T   B      B   B   T   B

B   B   B      T   T   B   B

B   B  B      T   B   B   T

T   T   B   B   T   T   B

B   T   T   B   B   T   B

B   B   T   T   T   B   B

B   B   T   T   B   B   T

T   T   B   B   T   T   B

- Căn cứ thanh điệu từng tiếng trong mỗi câu để xác định. Ví dụ, với câu 3: B-B-B-T-B-B-T. Cần ôn lại kiến thức về niêm, luật trong thơ Đường luật, đặc biệt chú ý thanh điệu của các chữ thứ 2 - 4 - 6 trong mỗi câu để nêu nhận xét.

- Bài thơ viết theo luật trắc, các vị trí thanh điệu yêu cầu bắt buộc phải tuân thủ (vị trí 2 - 4 - 6 trong mỗi câu thơ) không có phá cách.

5. Hiện tượng đối ý: ở câu 3, cảnh được miêu tả từ thấp lên cao trong khi đó ở câu 4, cảnh lại được vận động từ cao xuống thấp.

Tác dụng: tạo nên góc nhìn đa dạng về thiên nhiên. Có thể thấy, thiên nhiên rộng lớn đến nhường nào còn con người lúc đấy lại mang nỗi lo lắng, nhỏ bé.

Bài tập 3. Đọc bốn câu đầu bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến dưới đây, so sánh với bốn câu đầu của bài Thu hứng và trả lời các câu hỏi:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

(Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, Hà Nội, 1979, tr. 121)

1. Hãy nêu cảm nhận chung nhất của bạn về bức tranh mùa thu trong bốn câu thơ đầu của hai bài thơ.

2. Thống kê các động từ và tính từ trong bốn câu đầu của mỗi bài thơ và nếu nhận xét.

3. Hệ thống hình ảnh được hai tác giả sử dụng để miêu tả mùa thu trong hai bài thơ có gì khác biệt?

4. Chỉ ra nét khác biệt trong cảm xúc về mùa thu của hai nhà thơ (thể hiện qua bốn câu thơ đầu ở mỗi bài).

5. Hãy sưu tầm, liệt kê tối thiểu năm bài thơ viết về mùa thu trong thơ ca cổ kim mà bạn biết, sau đó điền các thông tin tương ứng vào vở theo bảng gợi ý sau:

sưu tầm kiệt kê 5 bài thơ


1. 

- Bài Thu hứng: Bức tranh mùa thu tuy rộng lớn mà quạnh hiu, buồn vắng, gợi sự ảm đạm, chán chường: Khung cảnh mùa thu rộng lớn nhưng u buồn, tàn tạ. Sương trắng làm tàn úa rừng phong, khí thu tiêu điều lạnh lẽo bao trùm núi non. 

- Bài Thu vịnh: Mùa thu hiện lên yên bình, êm ả. Khung cảnh mùa thu cao rộng, trong sáng, thanh thoát. Trời xanh, nước biếc, trăng soi;... thể hiện cảnh yên bình của làng quê. Vẫn là không gian rộng lớn nhưng ở đây có sự trong sáng, tươi mới so với bài Thu hứng.

2. 

Tác phẩm Thu hứng Thu vịnh
Động từđiêu thương (làm đau thương), kiêm (trùm lên), dũng (nước tung vọt), tiếp (sà xuống), âm (làm tối tăm)trông, phủ, vào
Tính từ ngọc (màu trắng), tiêu sâm (tiêu điều)xanh ngắt, cao, lơ phơ, hắt hiu, biếc, thưa
Nhận xétMột vài từ được sử dụng theo phương thức chuyển từ loại (ví dụ: âm vốn là tính từ, với nghĩa là tối tăm, trong câu thơ được dùng như động từ, với nghĩa là làm cho tối tắm...). Bên cạnh đó, động từ được sử dụng với tần suất dày đặc không chỉ miêu tả khung cảnh mà còn nhấn mạnh đến sự tác động của thời gian. Từ ngữ được sử dụng một cách đắc địa, thể hiện dụng ý của tác giả một cách rõ ràng.Các tính từ được sử dụng với mật độ dày đặc, nhiều tính từ chỉ mức độ, cho thấy bốn câu đầu bài thơ thiên về tả cảnh; khung cảnh mùa thu cao xanh, tĩnh lặng, trong sáng,... thể hiện tâm hồn khoáng đạt, thanh thoát của nhà thơ.

3.  

- Bài Thu hứng: Hình ảnh mang tính ước lệ, gợi đặc trưng của mùa thu phương Bắc, thể hiện cảm xúc u buồn: sương trắng, rừng phong, núi non hiu hắt, sóng nước tung vọt, gió mây tối tăm,...

- Bài Thu vịnh: Hình ảnh cụ thể, dân dã, gắn với đặc trưng mùa thu nông thôn Việt Nam, thể hiện cảm xúc bình yên, thanh nhàn:  trời xanh, nước biếc, cần trúc lơ phơ, tầng khói phủ, trăng sáng,... 

4. 

- Cảm xúc về mùa thu trong bốn câu đầu bài Thu hứng thể hiện rõ tâm trạng u buồn, đau thương; hình ảnh con người nhỏ bé, cô đơn trong vũ trụ rộng lớn;...

- Cảm xúc về mùa thu trong bốn câu đầu bài Thu vịnh thể hiện tâm hồn tĩnh lặng, thanh cao của con người giữa thiên nhiên đất trời.

5. 

STT

Tên tác phẩm

Tác giả, thời kì

Quốc gia

Ấn tượng chung về tác phẩm

1

Thu hứng (Cảm xúc mùa thu)

Đỗ Phủ, thế kỉ VII

Trung Quốc

- Thiên nhiên ảm đạm, hiu hắt của mùa thu.

- Cái tình của nhà thơ nhớ nước, thương dân

2

Thu điếu (Câu cá mùa thu)

Nguyễn Khuyến

Việt Nam

- Bức tranh thu trong sáng, thanh đạm mang hồn dân dã của làng quê nước Việt.

- Tâm hồn gắn bó tha thiết với thiên nhiên đất nước, một tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc.

3

Sang thu

Hữu Thỉnh

Việt Nam

Thiên nhiên lúc sang thu và suy ngẫm về đời người khi chớm thu.

4

Đây mùa thu tới

Xuân Diệu

Việt Nam

Cảnh thu, tình thu đẹp nhưng buồn

5

Thơ tình cuối mùa thu

Xuân Quỳnh

Việt Nam

Hình ảnh giản dị, quen thuộc miền quê đồng bằng Bắc Bộ; tâm sự của một người đàn bà khi đang đắm chìm trong tình yêu. Khắc khoải, tinh tế, đầy xúc cảm, hồ nghi nhưng cũng tràn ngập sự tin tưởng.

Bài tập 4. Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Trình tự phân tích một bài thơ bát cú Đường luật, thường gọi là “luật thi là một biểu hiện cụ thể của phương pháp phân tích một bài thơ Đường luật. Nói chung mọi người đều cho rằng cách phân tích hợp lí nhất là cắt ngang theo bố cục. Đó là điều dễ hiểu và dễ thống nhất vì xưa nay ai cũng chấp nhận rằng một bài luật thi gồm có bốn “liên” (nghĩa là “cặp câu”, tức hai dòng thơ số lẻ và số chẵn đi liền nhau) và trong mỗi liên, giữa câu số lẻ và số chẵn có quan hệ với nhau về nhiều mặt. [...]

Trước hết, cần thấy rằng quả “liên” là đơn vị hết sức cơ bản trong luật thi. Dù phân tích theo phương pháp nào và theo quan niệm bố cục nào thì hầu như trong mọi trường hợp, vẫn phải xuất phát từ việc phân tích đơn vị có tính chất cơ sở đó. Một dòng luật thi đứng tách ra sẽ không cho thấy vẻ đẹp đầy đủ của nó mặc dù xét về phương diện cú pháp, tự nó hầu hết đã hoàn chỉnh.Qua các tài liệu trình bày ở trên, ta thấy trình tự [...] “đề – thực – luận – kết" chỉ là cái khung mà người đời sau choàng lên cho thơ Đường luật. Dĩ nhiên, trình tự đó có cái “lí” của nó: Tác phẩm nào chả có phần mở đầu, phần kết, phần giữa và riêng phần giữa, phần “thân bài” lại có thể phân ra nữa? [..]

Dẫu sao thì các trình tự bố cục nói trên cũng đã được hình thành từ lâu, do đó, đã có tác dụng hướng đạo sự sáng tác của nhiều thế hệ. Bởi vậy, vận dụng nó trong nhiều trường hợp cũng phù hợp, đặc biệt là với những bài luật thi được sáng tác từ thời cận đại trở về sau. Mặc dù vậy, nếu coi đó là một bố cục tất yếu để vận dụng phân tích bất cứ bài luật thi nào thì nhất định sẽ có lúc rơi vào chỗ gượng ép, khiên cưỡng. Những tác phẩm luật thi được đưa ra phân tích thường là những tác phẩm xuất sắc, do đó, đều là những công trình sáng tạo. Mà đã sáng tạo thì nhất thiết không bao giờ chịu gò vào những khuôn khổ quá chặt chẽ. [..] Như vậy là cho đến nay có ba quan niệm khác nhau về mô hình luật thi: 2/2/2/2; 4/4; 2/4/2. Cả ba mô hình, theo chúng tôi nhận xét, đều có căn cứ trong thực tiễn, đều có cơ sở lí thuyết khá rõ ràng. [..] Dùng mô hình nào là do thực tiễn của bài thơ quy định. Song như đã nói trên, sáng tạo nghệ thuật không phải bao giờ cũng chịu gò bó theo những thể thức nhất định. Bởi vậy trong thực tế nhiều khi có những bài không thể vận dụng được bất cứ một trong ba mô hình nói trên.

(Theo Nguyễn Khắc Phi, Về trình tự phân tích một bài thơ bát cú Đường luật, in trong Về thi pháp thơ Đường, NXB Đà Nẵng, 1997, tr. 53 – 65)

1. Theo tác giả đoạn trích, câu thơ hay cặp câu thơ là đơn vị cơ bản của một bài thơ Đường luật?

2. Mô hình kết cấu 2/2/2/2 của một bài thơ bát cú Đường luật (thường được gọi là “đề – thực – luận – kết") là do các nhà thơ đời Đường đặt ra hay do người đời sau khái quát về cấu trúc chung của thể thơ này? 

3. Các mô hình luật thi nói trên có bao quát hết thực tiễn sáng tác của thơ Đường luật hay không? Quan điểm của tác giả bài viết về vấn đề phân định cấu trúc bài thơ theo các mô hình phổ biến nói trên như thế nào?

4. Theo tác giả đoạn trích, vì sao “Một dòng luật thi đứng tách ra sẽ không cho thấy vẻ đẹp đầy đủ của nó”?

5. Các kiểu mô hình cấu trúc (2/2/2/2; 4/4; 2/4/2) có tác dụng như thế nào đối với người sáng tác theo thể Đường luật đời sau? Vì sao?


1. Theo tác giả, cặp câu thơ là đơn vị cơ bản của một bài thơ Đường luật. Việc xác định “đơn vị cơ bản” trong trường hợp này chủ yếu xét ở góc độ cấu trúc hình thức và bố cục ý của tác phẩm. Quan điểm này có cơ sở thuyết phục. 

2. Theo lí giải của tác giả và thực tế lịch sử văn học, mô hình kết cấu 2/2/2/2 của một bài thơ bát cú Đường luật (thường được gọi là “đề - thực - luận - kết”) không phải do các nhà thơ đời Đường đặt ra mà là do người đời sau khái quát về cấu trúc chung của thể thơ này. Đặc biệt là cách gọi tên “đề” “thực” “luận”, “kết” và việc gán cho chúng những chức năng xác định.

3. Các mô hình luật thi nói trên không bao quát hết thực tiễn sáng tác của thơ Đường luật.

Quan điểm của tác giả: Cần phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác định mô hình cấu trúc. Tác giả cho rằng, đó không phải là “một bố cục tất yếu”; vì thế, nếu vận dụng một cách áp đặt để phân tích bất cứ bài luật thi nào thì nhất định sẽ có lúc rơi vào chỗ gượng ép, khiên cưỡng.

4. Theo tác giả, một dòng luật thi đứng tách ra sẽ không cho thấy vẻ đẹp đầy đủ của nó vì: các câu thơ, trong cấu trúc “cơ sở (liên thơ) và “chỉnh thể” (bài thơ) đều có quan hệ với nhau. Về hình thức, “niêm" chính là mô hình cấu trúc theo chiều dọc, giữa các câu và cặp câu đều có chi phối, ước thúc lẫn nhau. Về nội dung, chúng tạo ra một ý nghĩa khái quát theo một kiểu quan hệ nhất định.

5. Theo tác giả, các kiểu mô hình cấu trúc (2/2/2/2; 4/4; 2/4/2) đã được hình thành từ lâu (trong thực tiễn sáng tác của thơ ca đời Đường), tức là đã hình thành một truyền thống. Vì thế, đối với thơ ca sáng tác theo thể Đường luật đời sau, nó “đã có tác dụng hướng đạo sự sáng tác của nhiều thế hệ. [...], đặc biệt là với những bài luật thi được sáng tác từ thời cận đại trở về sau”

Bài tập 5. Đọc lại văn bản Mùa xuân chín trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 50) và trả lời các câu hỏi:

1. Bài thơ được viết bằng thể thơ gì? Hãy kể tên một số bài thơ khác mà bạn biết cũng sử dụng thể thơ này và mô tả đặc điểm chung về hình thức của chúng.

2. Nhan đề Mùa xuân chín có thể gây nên sự chờ đợi gì ở độc giả? Theo bạn, sự chờ đợi đó đã được tác giả đáp ứng như thế nào?

3. Sắc màu, âm thanh và sức sống của mùa xuân đã được tác giả thể hiện như thế nào qua các phương tiện ngôn từ?

4. Phân tích hình ảnh hiện lên trong hồi tưởng của nhân vật trữ tình ở hai dòng cuối bài thơ.

5. Làm rõ giá trị biểu đạt của dấu chấm câu ở cuối khổ 1 và dấu gạch đầu dòng ở khổ 2, khổ 4.


1. 

- Thể thơ: bảy chữ.

- Kể tên: Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính), Vườn cũ (Tế Hanh), Tức cảnh Pác Bó (Hồ Chí Minh)…

- Đặc điểm:

+ Mỗi dòng thơ có 7 tiếng.

+ Thường được chia thành nhiều khổ, mỗi khổ thường 4 dòng.

+ Vần thường được sử dụng là vần chân. Ngoài ra, còn có vần ôm. Việc vận dụng phối hợp nhiều cách gieo vần không chỉ tạo nên sự kết nối giữa các dòng trong một khổ mà còn giữa các dòng thuộc những khổ thơ khác nhau.

+ Ngắt nhịp không có định nhằm lưu giữ được vẻ sống động, “nguyên chất” của cảm xúc được giãi bày.

2. Nhan đề là sự ghép của một bên là từ chỉ thời gian còn bên kia là từ chỉ trạng thái sự vật. Nhan đề gợi sự tò mò cho người đọc. Cụm từ “mùa xuân chín” một mặt gợi liên tưởng về sự viên mãn của mùa xuân, mặt khác gây ám ảnh không dứt về “độ phai tàn sắp sửa” Xuyên suốt bài thơ, hai thái cực này của “mùa xuân chín” được tác giả đồng thời tô đậm. Đây là một tổ hợp từ ngữ khá đặc biệt, ở đó có sự ghép nối giữa một từ chỉ thời gian (mùa xuân) với một từ chỉ trạng thái mang tính vật chất của sự vật (chín).

Sự chờ đợi đó được tác giả đáp ứng: Xuyến suốt bài thơ, tác giả mở ra cho chúng ta cảnh sắc thiên nhiên vào ngày xanh cùng với đó là hình ảnh cô gái lấy chồng bỏ cuộc chơi và sự đối lập giữa một bên là các cô thôn nữ hát trên đồi – cô gái năm nay vẫn còn đang gánh thóc.

3. Bài thơ vẽ ra một bức tranh xuân tươi tắn sắc màu, rộn rã âm thanh. Tác giả đã sử dụng một cách rất tinh tế những từ ngữ chỉ màu sắc (lấm tấm vàng, tà áo biếc, sóng cỏ xanh tươi) và từ ngữ chỉ âm thanh (sột soạt, tiếng ca vắt vẻo, hồn hển, thẩm thì). Các từ ngữ ấy đã kết hợp một cách khéo léo với hàng loạt động từ được gieo vào những vị trí rất “đắc địa” (ửng, tan, trêu, gợn, gặp, sực nhớ), nhằm gây ấn tượng về sự xuất hiện tiếp nối, liên hoàn của các hình ảnh nhờ một tác động thần diệu nào đó. 

4. Người phụ nữ gánh thóc “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?” xuất hiện ở cuối bài thơ là hình ảnh nằm dưới đáy sâu kí ức thể hiện tất cả nỗi ưu tư và niềm thương cảm của nhân vật trữ tình về làng quê. Hình ảnh hiện lên trong hồi tưởng của nhân vật trữ tình ở hai dòng cuối bài thơ gợi lên nhiều nỗi niềm. Người phụ nữ gánh thóc sau không gian đẹp đẽ, thơ mộng ấy lại bắt tay vào công việc của mình. Độ chín của mùa xuân mở ra trước mắt mỗi người một cơ hội để ta nhìn thấy rõ hơn bản chất của đời người, của sự sống, giúp ta thấy quý trọng hơn những giây phút được sống trong thì hiện tại. Cuộc sống vẫn cứ tiếp tục, nhìn vào đấy, ta càng trân quý từng giây phút tồn tại của mình hơn. Vừa có sự vui vẻ song cũng ẩn chứa nhiều nỗi lo toan. 

5. Giá trị biểu đạt:

- Dấu chấm câu ở giữa câu 4 và cuối khổ 1 như làm sức nặng của các hình ảnh, câu “Trên giàn thiên lí” cũng gợi những cách diễn giải khác nhau. Đó là sự bừng tỉnh về cảnh sắc thiên nhiên, báo hiệu rằng mùa xuân đã đến.

=> Dấu chấm câu xuất hiện ở giữa câu 4 của khổ 1 khá đặc biệt. Từ ấn tượng thị giác về dấu câu được đặt ở vị trí này, độc giả buộc phải điều chỉnh cách đọc thơ theo lối tuyến tính để cảm nhận được sức nặng của từng cụm từ, hình ảnh. 

- Dấu gạch đầu dòng ở khổ 2 và khổ 4 cho thấy mạch thơ có sự chuyển đổi đột ngột. Đó là sự đan cài giữa thiên nhiên và con người. 

Bài tập 6. Đọc lại văn bản Bản hoà âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 53 – 57) và trả lời các câu hỏi:

1. Theo bạn, câu văn nào trong văn bản có thể khái quát được chính xác và đầy đủ ý tưởng chính của tác giả khi đặt bút viết bài bình thơ này?

2. Tóm tắt những ý đã được tác giả triển khai nhằm chứng minh: âm điệu là một trong những phương diện đặc sắc nổi bật của bài thơ Tiếng thu.

3. Bài viết có nhiều phát hiện tinh tế về bài thơ Tiếng thu. Theo bạn, phát hiện nào sáng giá, gây ấn tượng hơn cả? Vì sao?

4. Các đoạn 1, 2, 3 của văn bản đề cập những vấn đề gì? Việc nhận thức sâu sắc về những vấn đề đó có ý nghĩa như thế nào đối với việc cảm thụ, phân tích bài thơ Tiếng thu?

5. Đánh giá khái quát về mạch lạc và liên kết trong văn bản.


1. Câu chủ đề: Từng có câu…. mà thành Tiếng thu.

2. 3 phần nội dung của bài thơ hợp thành một khúc thức gồm 3 lời (nghĩa là bài thơ có kết cấu rất âm nhạc), vừa lặp lại, vừa phát triển.

- Vần điệu phong phú, thống nhất tạo thành một giai điệu thu hoàn hảo.

- Tiếng thu là bản hoà âm giữa bằng và trắc, trong đó, âm bằng chiếm ưu thế nhưng âm trắc lại tạo nên nét hiếm quý của toàn bản nhạc thơ.

- Có sự cộng hưởng giữa âm nền  (“thổn thức” “rạo rực”)  và âm nổi (“xào xạc”), vừa miêu tả được trạng thái của thiên nhiên, tạo vật, vừa thể hiện được điệu hồn của nhà thơ và thời đại.

3. 

- Bài thơ có sự hoà điệu đầy nhạc tính giữa tiếng thu và tiếng thơ.

- Bài thơ như một khúc thức âm nhạc gồm ba lời.

- Bài thơ nói đến ba thứ tiếng (tiếng thốn thức của mùa thu dưới trăng mờ, tiếng rạo rực của lòng người cô phụ, tiếng lá thu “kêu xào xạc”), trong đó, chỉ “xào xạc” là âm thanh có thể nghe được bằng thính giác (âm nổi), trở thành “người phát ngôn” chính thức của Tiếng thu, cho thấy đằng sau nó là cả một bản giao hưởng vô hình của những nỗi xôn xao huyền diệu mà nhà thơ cảm thấy và muốn thể hiện rõ.

4. Các vấn đề được đề cập trong các đoạn 1, 2, 3 của văn bản đề cập đến những vấn đề:

- Mối quan hệ đặc biệt giữa mùa thu và thi ca.

- Vẻ đẹp yên bình, thanh vắng của thiên nhiên trong thơ cổ điển.

- Xôn xao - điệu hồn riêng của Thơ mới.

=> Ý nghĩa: giúp người đọc, người phê bình có cái nhìn tổng quan hơn về phong trào Thơ mới được tác động từ các điều kiện ngoài xã hội lẫn trong hoạt động nghệ thuật đồng thời hướng đến những điều mới mẻ khi sáng tác thơ ca.

5. Văn bản được người biên soạn SGK chia thành 13 đoạn. Tất cả các đoạn đều hướng về làm rõ chủ để chung của bài viết: Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là một bản hoà âm ngôn từ độc đáo.

- Trong từng đoạn văn, các câu gối nhau theo tương quan hỏi - đáp với sự xuất hiện của nhiều đại từ và kết từ.

- Giữa các đoạn luôn xuất hiện các phương tiện liên kết với sự láy lại nhiều từ, cụm từ, thể hiện việc giải đáp liên tục các câu hỏi nảy sinh theo logic liên tưởng và suy luận.

- Mỗi đoạn văn đều xoáy vào một tiêu điểm, lần lượt làm rõ các khía cạnh có liên quan tới việc đánh giá đóng góp của Lưu Trọng Lư cho thơ viết về đề tài mùa thu - một đóng góp mang đậm dấu ấn phong cách cá nhân cũng như phong cách thơ của thời Thơ mới.

=> Văn bản có cấu trúc chặt chẽ, logic, đảm bảo được những yêu cầu cơ bản. Tất cả đã khiến cho người đọc có cái nhìn dễ dàng, hiểu rõ hơn về tác phẩm.

Bài tập 7. Đọc lại văn bản Cánh đồng trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 71) và trả lời các câu hỏi:

1. Ấn tượng đầu tiên của bạn về bài thơ Cánh đồng của Ngân Hoa là gì? Vì sao bạn có ấn tượng đó?

2. So với việc đọc những bài thơ thuộc các thể loại khác, thể loại mà tác giả lựa chọn đã gây khó khăn hay tạo niềm hứng thú cho bạn như thế nào?

3. Xác định mối liên hệ giữa các hình tượng chính trong bài: em, đoa cúc, bình gốm, cánh đồng.

4. Chỉ ra những điệp ngữ được sử dụng trong bài và phân tích giá trị biểu đạt của những điệp ngữ đó.

5. Làm rõ sự thống nhất giữa hình thức thơ tự do và toàn bộ nội dung cảm xúc, liên tưởng, suy tưởng mà nhân vật trữ tình muốn bày tỏ.


1. Ấn tượng: sự kết hợp giữa hình ảnh có gam màu sáng và hình ảnh có gam màu tối; mạch thơ đi theo dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình;... Vì: điều này khiến chúng ta có cái nhìn rõ hơn về bài thơ. Việc sử dụng cái nhìn đa chiều khiến bài thơ tồn tại theo khuynh hướng khách quan.

2. Theo em, đây là điểm khó nhưng cũng là điểm thú vị khi tác giả lựa chọn thể loại này. Những hình ảnh được mang đến một cách bất ngờ khiến người đọc trở nên thích thú, mong chờ nhưng nếu không biết cách liên kết thì đó lại là mối nguy hại. 

- Thể loại bài thơ “Cánh đồng” là thơ tự do.

- Tính chất tự do của hình thức thơ (số tiếng trong dòng thơ, số dòng thơ trong bài thơ, số dòng thơ ở mỗi khổ; vần, nhịp;...).

- Lối triển khai mạch cảm xúc, suy tưởng rất tự do, phóng túng với nhiều liên tưởng bất ngờ, không dễ nắm bắt.

- Tính biểu tượng của các hình ảnh.

3. Từ chỗ là một đối tượng khi “chạy về với cánh đồng rộng lớn mùa xuân”, để “chân ngập trong đất mềm tươi xốp" “em” bỗng hoá chín cánh đồng để gọi mùa màng tới. Những “đóa cúc” do “em” hái về gợi khao khát, trở thành người cất tiếng lòng thay “em” về một khao khát tình yêu rộng mở. “Bình gốm” chờ đợi hoa nhưng nó cũng được chính hoa tạo sinh. Dường như mọi thứ đang cùng chờ đợi nhau để cất lên tiếng ca mùa xuân căng tràn sức sống.

=> Bài thơ có các hình tượng chính: em, đoá cúc, bình gốm, cánh đồng. Các hình tượng vừa tồn tại độc lập vừa chuyển hoá hoà lẫn vào nhau. Tất cả đều chờ đợi nhau, giục giã nhau để cùng cất tiếng reo vui ngợi ca mùa xuân, ngợi ca vẻ đẹp giao hoà, căng tràn nhựa sống của cả vũ trụ.

4.

- Bài thơ sử dụng thường xuyên biện pháp tu từ điệp ngữ, với việc lặp lại các cụm từ: chạm vào em? em gọi tên? chưa kịp; những (các) loài hoa? những trái cây; đang ngủ/ dưới (lớp) đất cày, (những) chiếc bình gốm.

- Tác dụng: Gợi lên tình trạng tồn tại song trùng của các sự vật; gợi lên dáng dấp cuống quýt, vội vã của nhân vật trữ tình muốn ôm vào mình tất cả những gì đang nảy nở tốt đẹp trong cuộc sống.

=> Biện pháp tu từ điệp ngữ đã giúp nhà thơ diễn tả rất đạt sự nhân lên trùng điệp của những hạt mầm sự sống cùng niềm vui luôn tăng cấp trước toàn bộ những gì đang phơi mở dưới các giác quan bén nhạy của nhà thơ.

5. Sự thống nhất:

- Bài thơ chia làm 3 đoạn, mỗi đoạn có số dòng không giống nhau. Sự cân đối hình thức bị phá vỡ cốt để dòng cảm xúc - suy tưởng của nhân vật trữ tình được bộc lộ tự nhiên nhất, không buộc phải độn lời, một khi điều cốt lõi đã được thể hiện.

- Dòng thơ có khi gồm 23 tiếng dài hơn các dòng khác thể hiện toàn bộ sự run rẩy, cuống quýt, hạnh phúc của nhân vật trữ tình. 

- Nhịp ngắt trong thơ không ổn định, đã bảo lưu trọn vẹn ngữ điệu lời nói hết sức chân thật của nhân vật trữ tình.

- Hình ảnh thơ liên kết thành một chuỗi thống nhất, gây ấn tượng rõ rệt về một sự mới mẻ tinh khôi, phù hợp với cảm quan về đời sống của nhân vật trữ tình.

- Thể hiện được chủ ý của nhân vật trữ tình biểu lộ tự nhiên, không gượng ép.

Ngoài hướng dẫn giải vở bài tập lớp 10 tập 1, tập 2 sách Kết Nối Tri Thức chúng tôi cũng cung cấp phiếu bài tập cuối tuần theo sát chương trình mới giúp các em ôn tập kiến thức hiệu quả. Cùng với đó là bộ đề thi giữa kì, cuối kì, cuối năm học giúp các em làm quen với các dạng bài, câu hỏi trong kì thi nhanh chóng và giành được điểm số cao đúng với mong muốn.

Nếu thấy nội dung giải VBT lớp 10 Kết Nối Tri Thức của chúng tôi hữu ích, các em học sinh - phụ huynh đừng quên theo dõi website Giaibaitapsgk để cập nhật thêm nhiều thông tin hấp dẫn khác. Ngoài ra, chúng tôi cũng cung cấp giáo án lớp 10 sách Kết Nối Tri Thức theo chương trình mới để các bậc phụ huynh tham khảo và ứng dụng vào việc dạy học tại nhà.