Soạn ngữ văn 11 cánh diều bài 1 Sóng
Đáp án giải vở bài tập 11 Tập 1 & tập 2 Cánh Diều chi tiết giúp các em học sinh rút ngắn thời gian làm bài. Đồng thời có thể đối chiếu một cách nhanh chóng từ đó phát hiện ra lỗi sai trong bài làm của mình để sửa lại. Ngoài đáp án 11 sách Cánh Diều bạn có thể tham khảo bộ đề trắc nghiệm Văn lớp 11 kì 2, kì 1 mà Giaibaitapsgk.net đã cập nhật năm 2023.
Soạn văn bài Sóng sách ngữ văn 11 tập 1 cánh diều. Phần đáp án chuẩn, hướng dẫn giải chi tiết cho từng bài tập có trong chương trình học của sách giáo khoa. Hi vọng, các em học sinh hiểu và nắm vững kiến thức bài học.
CÂU HỎI GIỮA BÀI
Câu 1. Hình tượng "sóng" gợi lên hững suy nghĩ gì về tình yêu?
Sóng chính là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt, trường tồn: khát vọng được “tan ra” “thành trăm con sóng nhỏ” để được sống hết mình trong “biển lớn tình yêu”, để tình yêu bất diệt, vĩnh cửu. Đó cũng là khát khao chia sẻ và tan tình yêu nhỏ bé với tình yêu chung rộng lớn của cuộc đời.
Câu 2. Tác dụng của biện pháp tu từ điệp (điệp từ ngữ và điệp cú pháp) trong bài thơ là gì?
Nhấn mạnh dù ở bất cứ đâu, dù có muôn vàn những khó khăn, cách trở thì người con gái ấy vẫn thủy chung, son sắt một lòng với người mình yêu thương. Đồng thời làm cho những câu thơ có nhịp điệu, liên kết và gây ấn tượng hơn trong lòng người đọc.
CÂU HỎI CUỐI BÀI
Câu 1. Em có nhận xét gì về nhịp điệu, âm điệu của bài thơ? Nhịp điệu, âm điệu đó được gợi lên từ những yếu tố nào?
Âm điệu, nhịp điệu bài thơ xao xuyến, rộn ràng, được tạo bởi:
- Câu thơ ngắn, thể thơ 5 chữ
- Nhịp thơ thường nhẹ nhàng, gợi dư âm sóng biển:
- Dữ dội / và êm dịu (2/3)
- Ồn ào / và lặng lẽ (2/3)
- Sông / không hiểu nổi mình (1/4)
- Sóng / tìm ra tận bể (1/4)
- Vần thơ: vần chân, vần cách, gợi hình ảnh các lớp sóng đuổi nhau.
Câu 2. Hình tượng bao trùm, xuyên suốt bài thơ là hình tượng “sóng”, được gợi tả với những biểu hiện khác nhau. Hãy chỉ ra những biểu hiện đó.
“Sóng” là sóng biển - đúng như vậy, bài thơ đã cho thấy rõ - nhưng càng đúng hơn, “sóng” ở đây là sóng tình - điều này càng sâu sắc, thấm thía hơn trong thi phẩm. Xuân Quỳnh đã dùng sóng biển để nói lên sóng tình, lấy một hiện tượng của thiên nhiên để giãi bày một tình cảm của lòng người.
- Hình tượng sóng được gợi lên từ âm hưởng sóng biển - dạt dào, nhàng của thể thơ 5 chữ. Song song cùng hình tượng “sóng" là “em" hình tượng đẹp đẽ để diễn tả tình yêu.
- Ở khổ 1 và 2, sóng được đặt trong trạng thái đối cực, gợi sự liên tưởng đến trạng thái tâm lí của tình yêu
- Phép liệt kê của Xuân Quỳnh đã truyền cho người đọc có thêm nhiều cảm nhận về tính phong phú của sóng và nhiều gương mặt đặc điểm tính cách. Khi “ dữ dội ồn ào” lúc biển động bão tố, phong ba nổi lên vỗ sóng lúc lại “dịu êm, lặng lẽ” khi biển lặng, bình minh lên nhẹ nhàng sóng vỗ.
- Dù phong phú về tính cách như thế nào “sóng” vẫn được quy chiếu về hai mặt đối lập nhau trong một chỉnh thể thống nhất là biển cả.
- Sóng được diễn tả dưới nhiều cung bậc hình thức, nghệ thuật đối lập để thấy được những trạng thái của sóng biển và đồng thời cũng ẩn dụ thể hiện cho những cung bậc cảm xúc khác nhua khi yêu lúc giận hờn, lúc lại yêu thương của người con gái.
- Khổ 3 và 4, từ hình tượng sóng nhà thơ đã nhận thức về tình yêu mình - Tình yêu sánh ngang biển lớn, sáng ngang cuộc đời:
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
- Với hình thức nghi vấn, nhà thơ thể hiện nỗi băn khoăn đi tìm cội nguồn của sóng, của tình yêu nhưng bất lực. Hai câu thơ cuối là lời thú tội hồn nhiên nhưng sâu sắc. Đó chính là quy luật của tình yêu.
- Khổ 5 và 6: Nỗi nhớ trong tình yêu được diễn tả bằng những liên tưởng so sánh, độc đáo thú vị:
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
- Nỗi nhớ trong lòng người con gái đang yêu là thường trực: khi thức, ngủ, da diết, mãnh liệt:
Lúc nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn ngàn cách trở
- Cứ thế, “sóng” và “em” xoắn xuýt sóng đôi, cộng hưởng với nhau trong suốt bài thơ, qua nhiều cung bậc của tình yêu, để rồi cuối cùng nhập vào nhau, hòa tan với nhau ở khổ thơ kết thúc:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Đó chính là ước vọng đời thường trong tình yêu của người phụ nữ qua hình tượng “sóng” của Xuân Quỳnh.
Câu 3. Phân tích sự tương đồng giữa tâm trạng của người phụ nữ đang yêu với những trạng thái của sóng trong bài thơ.
- Sự tương đồng trạng thái giữa “sóng” và “em”:
- Tình yêu của sóng khao khát tìm ra với biển lớn đến những thức đập, xô vỗ bờ,… Con sóng đang chứa đựng những nhịp điệu tâm hồn của người phụ nữ khi yêu. Con sóng dưới lòng sâu hay con sóng trên mặt biển đều diễn tả cái sâu thẳm, vời vợi của tình yêu con người.
- Cái cồn cào, khắc khoải trong nỗi nhớ khôn cùng của em với anh được diễn tả bằng nỗi nhớ của sóng với bờ. Sóng không ngủ hay là em thao thức, sóng nhớ bờ hay trái tim em cồn cào, thao thức đập vì anh?
- Biển không thể tách rời sóng, cũng như tình yêu của con người luôn tồn tại bất tử. Dù muôn vời cách trở sóng vẫn tìm đến bờ, giống như em nguyện dâng trọn đời cho anh. Bờ là nơi đến của sóng và anh là nơi đến của tình em.
=> Sóng và em là hai hình tượng luôn song hành cùng nhau trong bài. Có lúc phản ánh lẫn nhau, có lúc tách rời có lúc lại hòa vào làm một. Hình tượng này tuy hai mà một. Những đặc tính của sóng cũng giống như tâm trạng của người con gái trong tình yêu. Kết cấu này đã làm tăng hiệu quả của sự nhận thức và khám phá của chủ thể trữ tình về một tình yêu thủy chung, bất diệt.
Câu 4. Chỉ ra và phân tích tác dụng của một số biện pháp tu từ trong bài thơ.
Biện pháp tu từ trong bài thơ: điệp ngữ: "con sóng", đối: "lòng sâu- mặt nước" "ngày- đêm", "mơ- thức", ẩn dụ: con sóng là em, bờ là anh, nhân hóa. Rất nhiều thủ pháp nghệ thuật đã được tác giả sử dụng để tăng sức gợi hình, gợi cảm cho đoạn văn. Bên cạnh đó, nó cho thấy được nỗi lòng người con gái khi yêu với đủ cung bậc, với đủ những xốn xang trong lòng. Tất cả hòa quyện cho thấy một tình yêu trải qua những chông gai, trắc trở và nỗi nhớ tha thiết của người con gái khi yêu.
Câu 5. Nêu cảm nhận của em về tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua bài thơ Sóng.
Bài thơ đã thể hiện nổi bật vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu: chân thành, say đắm, nồng nàn, mãnh liệt, thủy chung, trong sáng, cao thượng. Nó vừa mang nét đẹp tình yêu của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, vừa có nét táo bạo, chủ động đến với tình yêu của người phụ nữ Việt Nam hiện đại.
Câu 6. Hình tượng người phụ nữ trong bài thơ Sóng có điểm gì tương đồng và mới so với người phụ nữ trong ca dao và văn học trung đại mà em biết?
- Giống nhau: Tình yêu của người phụ nữ trong bài thơ Sóng là tình yêu dạt dào, mãnh liệt và thủy trung. Tình yêu đó luôn khắc khoải hướng đến người mình thương. Tình yêu đó giống như tình yêu của những người phụ nữ xưa. Họ e ấp, chung thủy với tình yêu.
- Khác nhau: Trong bài sóng, tình yêu của người con gái rất cháy bóng, nó khao khát được thoát ra, vượt qua những khó khăn, tình yêu vượt qua mọi rào cản, biên giới. Đó là tình yêu của một người phụ nữ mang tư tưởng hiện đại. Họ mạnh mẽ và khao khát, chứng tỏ bản thân. Họ hiểu biết và có tầm nhìn xa trông rộng.
Câu 7. Trong văn học có nhiều câu thơ, bài thơ dùng hình tượng “sóng” và “biển” để nói về tình yêu. Hãy sưu tầm những câu thơ, bài thơ đó, đồng thời so sánh với bài Sóng để thấy được những sáng tạo đặc sắc của nhà thơ Xuân Quỳnh.
Biển
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
Bờ cát dài phẳng lặng
Soi ánh nắng pha lê...
Bờ đẹp đẽ cát vàng
Thoai thoải hàng thông đứng
Như lặng lẽ mơ màng
Suốt ngàn năm bên sóng...
Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt...
Cũng có khi ào ạt
Như nghiến nát bờ em
Là lúc triều yêu mến
Ngập bến của ngày đêm
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng cũng xin làm bể biếc
Để hát mãi bên gành
Một tình chung không hết,
Để những khi bọt tung trắng xóa
Và gió về bay tỏa nơi nơi
Như hôn mãi ngàn năm không thỏa,
Bởi yêu bờ lắm lắm, em ơi!
(Xuân Diệu)
Nếu bài thơ biển của Xuân Diệu giúp ta cảm nhận được sâu sắc một tình yêu được lồng vào khung trời biển khơi, thì bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh lại là những trạng thái cảm xúc đối cực, phức tạp của người phụ nữ khi yêu. Bài thơ của Xuân Quỳnh thể hiện sự nhạy cảm và lo âu của tác giả về cuộc đời trước sự trôi chảy của thời gian. Thể hiện sự băn khoăn, khắc khoải của nhân vật trữ tình muốn được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ. Đó là khát khao của người phụ nữ được hòa mình vào cuộc đời, được sống hết lòng với biển tình yêu. Bài thơ Sóng đã thể hiện quan niệm mới về tình yêu: yêu là tự nhân thức, là vươn tới cái rộng lớn, cao xa. Qua đó là lời khẳng định khát vọng tình yêu cháy bỏng luôn thường trực trong trái tim tuổi trẻ.
PHẦN THAM KHẢO MỞ RỘNG
Câu 1. Em hãy nêu giá trị nội dung, nghệ thuật của bài Sóng.
- Giá trị nội dung:
- Dựa vào việc quan sát, chiêm nghiệm về những con sóng trước biển cả mênh mông, Xuân Quỳnh đã phát hiện ra những cung bậc đa dạng, phức tạp của cảm xúc trong tâm hồn của người phụ nữ đang yêu.
- Niềm khao khát về tình yêu, hạnh phúc của một người phụ nữ vừa truyền thống, vừa hiện đại trong tình yêu.
- Giá trị nghệ thuật:
- Thể thơ năm chữ tạo âm điệu sâu lắng, dạt dào, như âm điệu của những con sóng biển và cũng là sóng lòng của người phụ nữ khi yêu.
- Cách ngắt nhịp linh hoạt, phóng khoáng và cách gieo vần, phối âm độc đáo, giàu sức liên tưởng
- Giọng thơ vừa thiết tha, đằm thắm, vừa mãnh liệt sôi nổi, vừa hồn nhiên, nữ tính
- Xây dựng hình ảnh ẩn dụ - với hình tượng sóng, vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ẩn dụ
- Bài thơ sử dụng các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, đối lập - tương phản,...
Câu 2. Em hãy nêu nội dung chính của văn bản Sóng
Bài thơ là tiếng lòng của người phụ nữ trong tình yêu luôn thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp mà con người cần có và luôn hướng tới.
Câu 3. Nêu tác giả, tác phẩm, bố cục của văn bản Sóng.
1. Tác giả
- Tiểu sử:
- Xuân Quỳnh (1942 - 1988)
- Quê quán: La Khê, Hà Đông - Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
- Cuộc đời bất hạnh, luôn khát khao tình yêu, mái ấm gia đình và tình mẫu tử.
- Sự nghiệp sáng tác:
- Phong cách sáng tác: Thơ bà là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc đời thường.
- Tác phẩm chính: Hoa dọc chiến hào (1968); Gió Lào cát trắng (1974); Tự hát (1984); Hoa cỏ may (1989),...
2. Tác phẩm
- In trong tập Hoa dọc chiến hào.
- Xuân Quỳnh sáng tác bài thơ trong chuyến đi thực tế vùng biển Diêm Điền (Thái Bình) (29/02/1967).
3. Bố cục
- Phần 1 (khổ 1+2): Sóng - Khát vọng tình yêu của người con gái.
- Phần 2 (khổ 3+4): Ngọn nguồn của sóng - Truy tìm sự bí ẩn của tình yêu.
- Phần 3 (khổ 5+6+7): Sóng - Nỗi nhớ thủy chung trong tình yêu.
- Phần 4 (Khổ 8+9): Những suy tư về cuộc đời và khát vọng trong tình yêu.
Câu 4. Phân tích tác phẩm Sóng.
Vào thời kỳ này, có thể nói rất ít những bài thơ tình yêu kiểu này nhất là với các nhà thơ nữ. Nếu có, phần lớn đều gắn bó với nhiệm vụ cách mạng, gắn với sứ mệnh thiêng liêng cao cả của dân tộc. Rất ít các nhà thơ tự bứt mình ra khỏi không khí chung để tìm vào cái gọi là riêng tư, sâu kín trong tâm linh mình. Dường như mọi người tránh và cố tình tránh... Nói như vậy để thấy rằng Sóng của Xuân Quỳnh là một bài thơ có nhiều điều đáng quý.
Viết về sóng, biển và thuyền để nói lên tình yêu trai gái ta đã gặp trong thơ Xuân Diệu với bài Biển... Ngay trong Xuân Quỳnh cũng có Thuyền và Biển... nhưng tìm một bài nói lên nỗi băn khoăn day dứt như Sóng có lẽ là gặp con người yêu tha thiết và cháy bỏng, luôn luôn muốn bứt mình ra để tìm đến một cái gì đó rõ ràng, cụ thể. Trong cuộc sống, Xuân Quỳnh thể hiện rõ cái phong cách này. Đã yêu ai thì yêu hết mình, đã ghét ai thì ghét cay ghét đắng. Chính lẽ đó mà trong thơ Xuân Quỳnh vẫn giữ được vẻ tận tụy, dứt khoát, rõ ràng. Song điều này cũng thể hiện:
Lòng em nhớ đến anh.
Cả trong mơ còn thức!
Có lẽ là sức mạnh của tình yêu, niềm say mê và nỗi lòng cuồng nhiệt, đã mang con người vào thế giới thần tiên, thơ mộng. Tất cả những lo toan, tính toán, những phức tạp, rắc rối trên cõi đời để nhường chỗ cho ước mơ, cho khát vọng đắm say trong lòng người tất cả những gì tồn tại bên ngoài đều cho hết, xua hết ra ngoài ý tưởng. Khẳng định nỗi lòng, nhà thơ đã đưa ra trạng thái “trong mơ còn thức" để thuyết phục. Tôi còn nhớ, có một nhà thơ khi bày tỏ nỗi lòng của mình với người yêu cũng nói:
Anh yêu em chỉ nhớ em thôi
Lúc đứng lúc ngồi lúc nào cũng nhớ
Trạng thái bồn chồn, xao xuyến, bứt rứt như cắn xé, cào cấu như giục giã người. Người con trai đứng ngồi không yên thì ở đây Xuân Quỳnh lại ngủ, thức không yên. Nào có kém gì đâu. Đã yêu nhau thường nhớ thường mong, thường đợi chờ nên không thể không có cái phút đứng ngồi không yên. Từ xa xưa, ông cha ta cũng có câu:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Chính vì lẽ đó mà mở đầu bài thơ cũng nói lên cái tâm trạng băn khoăn, trạng thái không ổn định trong tâm hồn mình
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng l
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Hai trạng thái tâm lý ngược nhau lại được dồn trong một ngữ cảnh cụ thể trong một người, ở cùng một lúc. Dĩ nhiên nói “dữ dội”, “ồn ào", “lặng lẽ" là nói về sóng trong bài thơ Sóng là em, và em là sóng, hai câu này hòa lẫn trong nhau, quyện vào nhau. Đọc hai câu thơ tưởng như đã là một sự khập khiễng, trái ngược vậy mà ngược lại rất có logic và hợp lý. Có được như vậy, hẳn phải nói đến nhà thơ và cái tài biểu hiện tâm lý. Đọc cả khổ thơ ta cũng như lắng mình trong đó, nghe được tiếng thổn thức của hồn người, cả khổ thơ là một trạng thái khá đọng của xúc cảm. Con người nhà thơ không bình lặng, không giản đơn mà có nét gì đó trăn trở, day dứt.
Đọc câu thơ ta nghe như tiếng sóng vỗ, như thấy được từng đợt sóng dập dìu. Ngôn ngữ thơ mang đầy âm thanh nhưng cũng gợi hình. Tiếng sóng không bình lặng, không dập dìu, nhẹ nhàng hôn nhẹ lên bờ cát, không ôm ấp, vỗ về hay nũng nịu mà “dữ dội" mà "ồn ào" nhưng “dịu êm". Nhà thơ phả vào dòng thơ một chúi hơi thở mà câu thơ sống động hẳn lên, nghe như có tiếng cựa quậy. Nhẽ ra trong trạng thái bình thường thì phải biết "dữ dội" và “ồn ào”, “dịu êm” và “lặng lẽ". Song nếu như thế thì chẳng còn gì để sống “không hiểu nổi” để sóng phải “tìm ra tận bể". Hai câu thơ dưới thể hiện nỗi khát vọng tìm tòi đến tột độ. Câu thơ tưởng chừng như bất chợt bật ra, vậy là thỏa mãn. Trong cuộc sống có gì bực dọc, đau khổ hơn khi chính mình lại không hiểu nổi mình, không lý giải được mình, mình là ai có lẽ cái sức mạnh lớn nhất muốn lật tung cái “sâu kín” đó là mình phải tìm được tận cùng nó. Cái ý nghĩa này, còn theo đuổi nhà thơ đến tận cùng của bài thơ. Khát vọng được hòa mình vào bể lớn của cuộc đời, bể lớn của tình yêu cứ thôi thúc, giục giã.
Từ “không hiểu nổi mình" nhà thơ liên tiếp đặt ra những băn khoăn, thắc mắc. Cuối cùng để tự dằn vặt mình, bởi lẽ hỏi cũng chỉ để hỏi mà thôi. Hỏi cho vơi nỗi lòng:
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Quy luật tự nhiên là sóng gió, nhưng còn tình cảm giải thích từ đâu... Đây là một điều cực khó, vẫn là nỗi băn khoăn dằn dỗi trong nỗi lòng mình. Vậy mà nỗi lo lắng, thảng thốt “không biết nữa", ngây thơ xen chút bất lực. Mọi câu hỏi đặt ra đều tha thiết tìm được nơi khởi nguồn, nơi “bắt đầu” của sự vật. Có như vậy nỗi lòng người mới thỏa mãn.
Trăn trở với khổ thơ ta nghe thấy nỗi lòng nhà thơ trăn trở, nhịp thơ trong khổ thơ thay đổi lúc 3/2 lúc 2/3 linh hoạt nhưng không xuôi không thẳng, không bình thường nhưng cũng dằn vặt, cũng nghĩ suy tìm tòi.
Xưa, nay rất nhiều thi sĩ đặt câu hỏi về tình yêu. Nhưng tình yêu là tình cảm, là cảm xúc làm sao biết được nó như thế nào, đến từ đâu... và nhiều nữa, nhưng tất cả đều bất lực. Ngay đến Xuân Diệu - một nhà thơ tình nổi tiếng, một con người luôn có khát khao giao cảm với đời luôn yêu, say đắm trong tình yêu, người mà: Trong giây phút chót dâng trời đất:
Cũng vẫn say tình đến ngất ngư
Người “uống” tình yêu đến “dập cả môi" cũng bất lực:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu.
Có người phải thốt lên rằng "có gì lạ quá đi thôi" khó quá! Nhưng tình yêu là thế. Làm sao có thể cảnh giác được trong tình yêu. Nó đến lúc nào ta đâu có biết và chiếm ta lúc nào ta đâu có hay. Quay lại khổ thơ Xuân Quỳnh ta gặp câu thổ lộ:
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Một câu hỏi rất con gái, nhẹ nhàng, bối rối lẫn chút đắm say, ngọt ngào, nũng nịu. Nói thế, không có nghĩa là khổ thơ chỉ đơn thuần và cảm xúc, con người chỉ đơn thuần là yêu say đắm bên tình yêu bên sự nồng nàn còn là sự nghĩ suy, tìm tòi đòi hỏi một câu trả lời dù ít thôi nhưng phải có... Nhưng cuối cùng câu hỏi vẫn để đó, nhà thơ bất lực... làm sao mà có thể đáp nổi... Một ánh mắt bâng quơ, một câu nói vô tình nhiều khi cũng làm cho người ta tương tư chứ huống chi lại có một khoảng thời gian dài nỗi khát vọng tình yêu cứ bồi hồi, cứ xao xuyến trong ngực trẻ.
Xem thêm một số bài văn mẫu hay cảm nhận về vẻ đẹp người phụ nữ trong bài Sóng
Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không giản đơn. Yêu thương cháy bỏng, nồng cay nhưng không vì thế mà hời hợt:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lê
Điệp từ “em nghĩ" nhắc đi nhắc lại càng làm rõ hơn sự suy nghĩ trong lòng người. "Em nghĩ” có nghĩa là đã thao thức, đã lo lắng, đã đặt ra nhiều câu hỏi, chứ không phải em chỉ quen bồng bềnh, quen si mê, đến chỉ yêu và đơn thuần là yêu. Xưa nay không hiểu người “chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì" tình yêu đã làm họ mù quáng, quên đi tất cả. Họ nhìn vào cõi hư vô, mộng ước, chỉ quen hưởng thụ chứ không biết suy nghĩ.
Tình yêu thường đồng hành với nỗi nhớ, sự mong đợi, vì lẽ đó mà trong thơ Xuân Quỳnh điều đó cũng thể hiện khá rõ. Yêu cuồng nhiệt thì nhớ cũng nát tan. Nỗi nhớ cứ dồn lên tầng tầng, lớp lớp như từng đợt sóng:
Con sóng dưới lòng sâ
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Đọc khổ thơ, tìm thấy vị trí của con sóng và cũng thấy được nỗi nhớ trong lòng người. Con sóng nhớ bờ nhớ thao thức “Ngày đêm không ngủ được". Nói "Con sóng dưới lòng sâu", “Con sóng trên mặt nước" nhà thơ muốn nói đến sự toàn diện. Dù tận dưới đáy sông hay ngay trên bề mặt sóng vẫn chỉ nhớ bờ, thương bờ. Nỗi nhớ mong tưởng chừng đến tột độ, nhớ nhau nên trăn trở. Đến nỗi trong ca dao người xưa cũng từng nói “đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt".
Nỗi nhớ của con sóng chính là nỗi nhớ của con người, nỗi nhớ tầng tầng lớp lớp đan xen nhau, nối tiếp nhau, thôi thúc, giục giã. Nói sóng để nói đến nỗi lòng mình. Nhớ nhau, nên thời gian như dài hơn:
Tháng giêng ngày dài lắm
Biết mà làm sao em.
giấc ngủ cũng chập chờn:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức!
Phải nói rằng, trong tình yêu Xuân Quỳnh yêu hết mình, yêu cuồng nhiệt, đắm say, cháy bỏng, nồng nàn. Nhà thơ tha thiết tắm mình trong nguồn cảm hứng vô tận này. Yêu nồng nàn như vậy nhưng trong Xuân Quỳnh vẫn có nét dịu dàng của con gái, vẫn biết là yêu đến nát tan, nhưng không vồ vập, ồn ào như Xuân Diệu. Người muốn “riết”, “say” muốn “hôn" và cuối cùng muốn “cắn": ''Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Trong thơ ông tình yêu không bằng lặng, Xuân Diệu mạnh mẽ táo bạo:
Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt
Càng đến cuối bài thơ Xuân Quỳnh càng tỏ ra mình là một con người sâu sắc, thủy chung. Tình yêu của Xuân Quỳnh là tình yêu từ hai phía, ở đây, nhân vật trữ tình đã có đối tượng để hướng tới chứ không vu vơ. Hơn nữa, tình cảm, tâm hồn của nhân vật trữ tình không phải là bi quan, chán nản mà tràn đầy hy vọng. Đọc bài thơ, không hề gặp cái tư tưởng: “Tương tư thức mấy đêm rồi. Biết cho ai hỡi ai người biết cho”.
Khổ thơ tiếp khẳng định được điều đó:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
Đến đây nhà thơ đã đưa ra khái niệm không gian để nói lên mức độ thủy chung. Hai từ “dẫu xuôi, “dẫu ngược", “phương Bắc”, “phương Nam" là những từ cụ thể khẳng định sự thủy chung khoảng không gian, địa điểm đặt ra trong khổ thơ nói lên độ dài nỗi cách trở, gian lao của thực tế với con người. Phương hướng, khoảng cách đặt ra xa bao nhiêu thì lòng người lại thể hiện rõ sự thủy chung bấy nhiêu “một phương". Câu thơ như một lời khẳng định rắn rỏi, mạnh mẽ, dứt khoát, rõ ràng. Khổ thơ đặt ra nhiều thử thách, nhiều cách trở nhưng cũng đưa ra được sự quyết tâm của con người. Tình yêu sẽ chiến thắng tất cả, nếu như đó là tình yêu chân thật, thủy chung. Lời thơ vang lên như một lời thề nguyện đọc lên cứ rưng rưng xúc động. Đã có bài hát khẳng định về điều này: "Dù thời gian xa xôi, dù đường dài xa xôi. Em vẫn như ngày xưa. Mến yêu anh trọn đời". Thơ Xuân Quỳnh cũng hướng về điều đó tuy cách diễn đạt có khác.
Dường như để khẳng định thêm cho lời nói của mình nhà thơ đã đưa ra hàng loạt các dẫn chứng về thiên nhiên, tạo vật. Tất cả rồi sẽ chiến thắng nếu có sự kiên nhẫn, có sức mạnh. Mọi vật rồi sẽ bị chinh phục nếu con người có ý chí, quyết tâm:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộn
Mây vẫn bay về xa
Hàng loạt các thử thách được đưa ra “sóng", cuộc đời và “biển” rộng là thế, dài là thế nhưng đều bị chinh phục.
Con sóng được Xuân Quỳnh ví như tình yêu "bồi hồi trong ngực trẻ". Nhân vật ước được tan ra thành trăm con sóng nhỏ để thể hiện một ước mong, khát vọng đến tha thiết:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn v
Khổ thơ kết là một ước muôn khôn cùng. Không có tình yêu cuộc sống tha thiết, không có sự đam mê đến tột cùng không có sự thủy chung làm sao có được những câu thơ như vậy. Trong ước mong vẫn lẫn chút băn khoăn của “làm sao được tan ra". Nhưng cũng phải thấy rằng chỉ có tình yêu thế nào đó thì mới có được ước mong như vậy. Mong muốn xé tan mình, hòa lẫn với bể đời rộng lớn, bứt mình ra khỏi nhọc nhằn, lo loan, tính toán để ngập mình trong tình yêu, tuổi trẻ, ngọt ngào và hạnh phúc.
Ước mong tồn tại vĩnh hằng trên cõi đời này thôi thúc, giục giã. Lời thơ, ý chí, nhịp thơ có phần nhanh hơn, mạnh hơn, gấp gáp hơn. Bài thơ kết thúc mà lời thơ còn vang vọng mãi, ào ạt của sóng, ước muốn tung mình vào bể tình yêu càng ngày nhiệt thành.
Cấu trúc bài thơ được xác lập theo cấu trúc đan xen hình tượng: sóng - bờ (khổ thứ 5), sau đó là anh - em (khổ 3,4) rồi lại sóng - bờ (khổ 7). Lớp lớp sóng đan xen nhau tới lui như vậy biển như lặng dần đi nhường chỗ cho những suy tư về cuộc đời.
Bài thơ viết theo thể 4 câu 5 chữ rất dễ thể hiện tình cảm chân thành của nhà thơ. Trong tình yêu sao không có phút trăn trở, giận hờn, thương nhớ. Nhưng xưa nay, trong thơ từ, nhất là thơ của các nữ sĩ người ta thường chỉ bắt gặp sự nhẹ nhàng yếu đuối, thầm kín chứ ít ai thấy sự mạnh mẽ, táo bạo. Phải chăng chính vì điều này mà phong cách thơ Xuân Quỳnh đã nổi rõ và khẳng định thêm sức mạnh của “phái yếu". Xưa nay, ta thường gặp sự hậm hực trong bài thơ của phái “mày râu".
Sóng ra đời cách đây đã gần ba mươi năm nhưng độ nồng nàn, đắm say của nó vẫn không phai giảm trong lòng người. Có thể nói, trong phút giây này nhiều bạn trẻ vẫn đọc thơ giật mình thấy "sợ". Yêu hết mình, hết lòng vì nhau, yêu thương gần gũi và thủy chung đó là một tình yêu đẹp song không dễ gì mà có được. Đọc thơ Xuân Quỳnh phần nào đó ta hiểu được con người nhà thơ. Trong cuộc sống thi sĩ vẫn tận tụy với con cái, yêu thương chúng rất mực, hết lòng vì chúng, với chồng cũng vậy, một người vợ thủy chung và đảm đang...
Tham khảo thêm bộ đề thi dành cho học sinh giỏi Văn lớp 11 cấp huyện, cấp thành phố giúp bạn nâng cao khả năng viết và cảm nhận văn học từ đó có thể dễ dàng nắm bắt được kiến thức trọng tâm.
Bộ tài liệu Soạn văn 11 siêu ngắn đầy đủ tập 2, tập 1 và giải bài tập SGK 11 Cánh Diều mà Giaibaitapsgk.net cung cấp sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng hoàn thiện bài tập. Đây cũng là "bí kíp" giúp các vị phụ huynh nắm được kiến thức trọng tâm và đồng hành cùng con học tập.