Soạn ngữ văn 11 kết nối Ôn tập học kì I
Soạn văn bài Ôn tập học kì I sách ngữ văn 11 tập 1 kết nối tri thức. Phần đáp án chuẩn, hướng dẫn giải chi tiết cho từng bài tập có trong chương trình học của sách giáo khoa. Hi vọng, các em học sinh hiểu và nắm vững kiến thức bài học.
I. HỆ THỐNG HÓA KIẾN THỨC ĐÃ HỌC
Câu hỏi 1. Nêu tên các loại, thể loại văn bản được học trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập một và nhan đề văn bản thuộc từng loại, thể loại ấy.
- Tác phẩm văn học bao gồm: tự sự, trữ tình, kịch.
+ Các thể loại trữ tình: ca dao, thơ cách luật, thơ tự do, thơ trào phúng…
+ Các thể loại tự sự: truyện, ngắn, tiểu thuyết, truyện vừa, bút kí, phóng sự…
+ Các thể loại kịch: kịch dân gian, kịch cổ điển, kịch hiện đại, bi kịch, hài kịch.
- Các văn bản cụ thể:
+ Truyện ngắn: Vợ nhặt - Kim Lân, Chí Phèo - Nam Cao, Cải ơi! - Nguyễn Ngọc Tư
+ Thơ trữ tình: Nhớ đồng - Tố Hữu, Tràng Giang - Huy Cận, Con đường mùa đông - Pu-skin, Thời gian - Nam Cao
+ Văn bản nghị luận: Cầu hiền chiếu - Ngô Thì Nhậm, Tôi có một ước mơ - Mác-tin Lu-thơ-kinh, Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh, Tiếp xúc với tác phẩm - Thái Bá Vân
+ Truyện thơ: Lời tiễn dặn - Truyện thơ dân tộc Thái, Dương phụ hành - Cao Bá Quát, Thuyền và biển - Xuân Quỳnh, Nàng Ờm - Truyện thơ dân tộc Mường
+ Kịch: Sống, hay không sống - đó là vấn đề - Uy-li-am Sếch-xpia, Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - Nguyễn Huy Tưởng, Prô-mê-tê bị xiềng - Eschyle
Câu hỏi 2. Lập bảng thống kê các khái niệm then chốt cần dùng để đọc hiểu những văn bản trong Ngữ văn 11, tập một và giải thích ngắn gọn về từng khái niệm.
STT | THUẬT NGỮ | GIẢI THÍCH |
1 | Biểu tượng | Hình ảnh tượng trưng, mang tính ngụ ý, gợi ý, vượt lên chức năng miêu tả, tạo hình đơn giản; chứa đựng nhiều tầng nghĩa phong phú; gợi cảm nhận, suy tư về những điều mang tính phổ quát. |
2 | Điểm nhìn bên trong | Loại điểm nhìn trần thuật được sử dụng để kể và tả xuyên qua cảm nhận, ý thức của nhân vật. |
3 | Điểm nhìn bên ngoài | Loại điểm nhìn trần thuật được sử dụng miêu tả sự vật, con người ở những bình diện ngoại hiện, kể về những điều mà nhân vật không biết. |
4 | Truyện thơ dân gian | Thuộc loại hình tự sự dân gian, do tầng lớp bình dân hoặc các trí thức sống gần gũi với tầng lớp bình dân sáng tác, có hình thức thơ, kể những cầu chuyện có nguồn gốc từ truyện cổ, sự tích tôn giáo hay cuộc sống đời thường, thể hiện đời sống hiện thực và những tình cảm, tức mơ, khát vọng của nhiều lớp người trong xã hội, nhất là những người lao động nghèo bằng ngôn ngữ giản dị, chất phác, giàu hình ảnh |
5 | Truyện ngắn hiện đại | là thể loại tự sự cỡ nhỏ, ở đó, sự ngắn gọn được nhìn nhận là một đặc trưng nổi bật. Thường chỉ xoay quanh một, hai tình huống diễn ra trong khoảng thời gian, không gian hạn chế. |
6 | Câu chuyện và truyện kể | Câu chuyện (còn có thể gọi là truyện gốc) là nội dung của tác phẩm tự sự bao gồm nhân vật, bối cảnh và sự kiện được sắp xếp theo trật tự thời gian. Truyện kể gắn liền với câu chuyện nhưng không đồng nhất: nó bao gồm các sự kiện được tổ chức theo mạch kể của văn bản tự sự, gắn liền với vai trò của người kể chuyện, hệ thống điểm nhìn và lớp lời văn nghệ thuật. |
7 | Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết | Ngôn ngữ nói (còn gọi là khẩu ngữ) là ngôn ngữ âm thanh, được tiếp nhận bằng thính giác. Ngôn ngữ nói gắn liền với hoạt động giao tiếp của con người trong đời sống thường nhật. Ngôn ngữ viết là ngôn ngữ được thể hiện bằng chữ viết, được dùng trong sách, báo, văn bản hành chính, thư từ,... Ngôn ngữ viết tồn tại trong các văn bản xuất hiện dưới nhiều hình thức vật thể khác nhau: bản viết tay, bản đánh máy, bản in, bản chữ nổi dành cho người khiếm thị,... |
8 | Cấu tứ và tứ thơ | Cấu tứ là một khâu then chốt, mang tính chất khởi đầu của hoạt động sáng tạo nghệ thuật nói chung và sáng tạo thơ nói riêng. Tứ thơ đưa bài thơ thoát khỏi sơ đồ ý khô khan, trừu tượng để hiện diện như một cơ thể sống. Nhờ có tứ thơ, tổ chức của bài thơ trở nên chặt chẽ, mọi yếu tố cấu tạo đều liên hệ mật thiết với nhau và đều hướng về một ý tưởng – hình ảnh trung tâm. |
9 | Yếu tố tượng trưng trong thơ | Trong lĩnh vực sáng tác văn học – nghệ thuật nói chung, sáng tác thơ ca nói riêng, thuật ngữ tượng trưng trước hết được dùng để chỉ một loại hình ảnh, hình tượng mang tính đặc thù. Ở đó, người nghệ sĩ thường sử dụng các hình ảnh, sự vật có thể tri giác được hay các câu chuyện cụ thể để diễn tả hoặc gợi lên cảm nhận sâu xa về những vấn đề có ý nghĩa bao trùm và mang tính bản chất. Yếu tố tượng trưng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên tính chất tượng trưng của bài thơ. Mọi hình ảnh, hình tượng thơ, xét từ bản chất, đã có tính chất tượng trưng. |
10 | Ngôn ngữ văn học | Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ biểu đạt đặc thù của sáng tác văn học. Trên cơ sở ngôn ngữ chung của đời sống do nhân dân sáng tạo nên, ngôn ngữ văn học hình thành và phát triển phong phú nhờ lao động tinh thần đặc biệt và đầy cảm hứng của nhà văn. |
11 | Văn bản nghị luận | Một văn bản nghị luận bao gồm nhiều thành tố: luận đề, luận điểm, lí lẽ, bằng chứng,... Các thành tố đó được tổ chức thành một chỉnh thể, có quan hệ chặt chẽ với nhau, nhằm đạt hiệu quả thuyết phục cao nhất. Là thành tố có tính chất bao trùm, luận đề có chức năng định hướng việc triển khai các luận điểm. Các luận điểm trong văn bản nghị luận, với sự thống nhất của lí lẽ và bằng chứng, có nhiệm vụ làm rõ từng khía cạnh và thể hiện tính nhất quán của luận đề. Mối quan hệ có tính bản chất giữa các thành tố như vậy tạo nên cấu trúc đặc thù của văn bản nghị luận. |
12 | Yếu tố bổ trợ trong văn bản nghị luận | Để tăng sức thuyết phục cho văn bản nghị luận, ngoài lí lẽ và bằng chứng, người viết còn có thể sử dụng một số yếu tố bổ trợ như: thuyết minh, miêu tả, tự sự, biểu cảm,... |
13 | Yếu tố tự sự trong thơ trữ tình | Thơ trữ tình không đặt trọng tâm vào việc kể một câu chuyện, có nhân vật, có tính cách, có bối cảnh không gian và thời gian với rất nhiều chi tiết cụ thể như truyện thơ, mà ưu tiên hàng đầu cho việc thể hiện cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình. |
14 | Bi kịch và xung đột trong bi kịch | Bi kịch là một thể loại thuộc về kịch. Thông qua sự dàn cảnh, luân chuyển lời đối thoại, độc thoại, hành động của nhân vật trên sân khấu, bi kịch tập trung diễn tả những xung đột hệ trọng, đạt tới mức căng thẳng tột độ giữa những mong muốn, hành động cao đẹp, hào hùng của con người với những tình thế bi đát không thể đảo ngược của thực tại hay với những trở ngại tồn tại ngay trong bản tính con người. Việc thắt nút, triển khai và giải quyết những xung đột như vậy làm nên cốt truyện bi kịch. Bi kịch thường kết thúc bằng thảm cảnh hay bằng cái chết của một loạt nhân vật. Xung đột trong bi kịch là những mâu thuẫn gay gắt giữa lựa chọn hành động tự do của nhân vật như một nhân cách mạnh mẽ với cái tất yếu vốn được thể hiện qua những thể lực như định mệnh, bản tính tự nhiên, định kiến thời đại, thực tại xã hội,... |
15 | Hiệu ứng thanh lọc bi kịch | Khi theo dõi hành động kịch căng thẳng, gay gắt, kết cục bi thảm, người tiếp nhận bi kịch có thể sợ hãi, kinh hoàng, thương cảm, xót xa như chính mình đang trải nghiệm những bế tắc trong cuộc sống cùng nhân vật, để rồi sau đó thấy căm ghét cái đê tiện, giả dối; ngưỡng mộ, cảm phục cái cao cả; tâm hồn như được thanh lọc, trở nên hải hòa, thăng bằng hơn. |
Câu hỏi 3. Tổng hợp những nội dung thực hành tiếng Việt trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập một theo các gợi ý sau:
- Nội dung thực hành;
- Khái niệm hay quy tắc cần nắm vững;
- Ý nghĩa của hoạt động thực hành.
Nội dung thực hành | Khái niệm hay quy tắc cần nắm vững | Ý nghĩa của hoạt động thực hành |
Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết | Ngôn ngữ nói (còn gọi là khẩu ngữ) là ngôn ngữ âm thanh, được tiếp nhận bằng thính giác. Ngôn ngữ nói gắn liền với hoạt động giao tiếp của con người trong đời sống thường nhật Ngôn ngữ viết là ngôn ngữ được thể hiện bằng chữ viết, được dùng trong sách, báo, văn bản hành chính, thư từ,... Ngôn ngữ viết tồn tại trong các văn bản xuất hiện dưới nhiều hình thức vật thể khác nhau: bản viết tay, bản đánh máy, bản in, bản chữ nổi dành cho người khiếm thị,... | Giúp người thực hành có thể phân biệt được trong hoàn cảnh nào nên dùng ngôn ngữ nói, hoàn cảnh nào nên dùng ngôn ngữ viết, từ đó là tăng giá trị biểu đạt và thông điệp được truyền tải cũng sẽ rõ ràng hơn. |
Nhận biết những hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường | Cần: - Nắm vững những quy ước ngôn ngữ có tính chuẩn mực của tiếng Việt -Thực hiện việc đối chiếu, so sánh các phương án sử dụng ngôn ngữ khác nhau. - Một số hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong sáng tác văn học: Tạo ra những kết hợp từ trái logic nhằm “lạ hoá” đối tượng được nói tới. | Việc phá vỡ quy tắc thông thường không chỉ thể hiện sự tài hoa trong việc sử dụng ngôn từ của người viết mà nó còn gây hứng thú, ấn tượng sâu sắc đến người đọc người nghe của tác phẩm. |
Những lưu ý trong việc sử dụng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết | Tuỳ hoàn cảnh và mục đích giao tiếp, chúng ta có thể sử dụng ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ viết. Nhưng nếu đã sử dụng ngôn ngữ ở dạng nào thì cần đảm bảo sự nhất quán trong cách dùng từ ngữ, đặt câu phù hợp với dạng đó. | Giúp người thực hành có thể phân biệt được trong hoàn cảnh nào nên dùng ngôn ngữ nói, hoàn cảnh nào nên dùng ngôn ngữ viết, để biết cách sử dụng cho phù hợp với từng ngữ cảnh, từ đó là tăng giá trị biểu đạt và thông điệp được truyền tải cũng sẽ rõ ràng hơn. |
Nhận biết lỗi và thành phần câu và cách sửa | * Thiếu thành phần nòng cốt - Câu thiếu chủ ngữ + CS1: dựa vào ngữ cảnh để bổ sung chủ ngữ phù hợp + CS2: lược bỏ quan hệ từ ở đầu câu để bộ phận đứng sau đó trở thành chủ ngữ - Câu thiếu vị ngữ + CS1: thêm từ “là” để biến thành phần chêm xen thành vị ngữ. + CS2: giữ nguyên thành phần chêm xen, dựa vào ngữ cảnh để bổ sung vị ngữ phù hợp - Câu thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ + CS: dựa vào ngữ cảnh, bổ sung thành phần nòng cốt để hoàn thành câu * Sắp xếp sai vị trí thành phần câu - Thiếu vế câu + CS: bổ sung quan hệ từ phù hợp, tương ứng với quan hệ từ đã có ở vế câu trước. | Người thực hành có thể nắm được những kiến thức cơ bản về cách viết câu sao cho đúng ngữ pháp để từ đó tránh những lỗi sai ngữ pháp không cần thiết trong quá trình viết và trong quá trình nói. |
Câu hỏi 4. Liệt kê những kiểu bài viết đã thực hiện trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập một theo bảng gợi ý sau:
STT | Kiểu bài viết | Đề tài được gợi ý | Đề tài đã viết |
|
|
|
|
|
|
|
STT | Kiểu bài viết | Đề tài được gợi ý | Đề tài đã viết |
1 | Văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện | Một vài nét về nghệ thuật tự sự của Nam Cao trong truyện ngắn Đời thừa | Phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao |
2 | Văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ | Bài thơ “Tĩnh dạ tứ” Lý Bạch | Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận |
3 | Bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội (Con người với cuộc sống xung quanh) | - Lắng nghe những tiếng thì thầm của cuộc sống - Vì sao học sinh cần tham gia các hoạt động sinh hoạt cộng đồng ở địa phươnhg - Cách tổ chức cuộc sống cá nhân có vai trò như thế nào trong việc hoàn thiện nhân cách? - Việc tiếp thu ý kiến của người khác có mâu thuẫn với việc khẳng định tính tự chủ của bản thân? - Ý nghĩa của phát ngôn có trách nhiệm trong giao tiếp xã hội là gì?
| Ý nghĩa của việc phát ngôn có trách nhiệm trong giao tiếp xã hội là gì? |
4 | Bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội (Hình thành lối sống tích cực trong xã hội hiện đại) | - Tự bảo vệ mình trước các tệ nạn xã hội - Thực hành lối sống xanh - Đấu tranh cho bình đẳng giới - Sự cần thiết của việc học ngoại ngữ - Trách nhiệm với lớp người yếu thế trong xã hội... | Tôn trọng sự khác biệt |
5 | Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên, xã hội | Tìm hiểu thêm về kinh thành Thăng Long thời Hậu Lê | Báo cáo nghiên cứu về Hoàng thành Thăng Long |
Câu hỏi 5. Nhớ lại các nội dung của hoạt động nói và nghe đã thực hiện trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập một trên các phương diện sau:
- Tên của nội dung hoạt động nói và nghe;
- Yêu cầu của hoạt động;
- Thách thức và ý nghĩa của hoạt động.
Bài 1: Thuyết trình về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm truyện
- Nội dung: Thuyết trình về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm truyện
- Yêu cầu:
+ Giới thiệu những thông tin cơ bản về tác phẩm truyện được chọn để thuyết trình
+ Nêu được các khía cạnh trong nghệ thuật kể chuyện của tác phẩm truyện
+ Trình bày được những phát hiện cá nhân về giá trị của tác phẩm, thu hút sự quan tâm của người nghe về tác phẩm được chọn để thuyết trình
+ Thể hiện được sự tôn trọng những cách cảm nhận, đánh giá đa dạng về một tác phẩm truyện
- Thách thức và ý nghĩa của hoạt động:
+ Thách thức: nhiều tác phẩm quá khó, gây khó khăn cho việc tìm hiểu; khó thống nhất được quan điểm giữa các thành viên; đôi khi xảy ra xung đột nhỏ…
+ Ý nghĩa: học sinh sẽ biết cách giới thiệu về một tác phẩm về quy trình, các bước tiến hành sao cho hiệu quả nhất.
Bài 2: Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật
- Nội dung: Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật
- Yêu cầu:
+ Cung cấp được thông tin chung về tác phẩm nghệ thuật một cách sáng rõ, chính xác (tên tác phẩm, tác giả, thể loại, thời điểm sáng tác, đánh giá của công chúng và các nhà chuyên môn,...)
+ Nêu được lý do chọn giới thiệu tác phẩm
+ Trình bày được cảm nhận, quan điểm cá nhân của người nói về giá trị tác phẩm với các lí lẽ và bằng chứng thuyết phục; chủ động đặt câu hỏi để người nghe cùng tương tác và đối thoại
- Thách thức và ý nghĩa hoạt động:
+ Thách thức: nhiều tác phẩm quá khó, gây khó khăn cho việc tìm hiểu; khó thống nhất được quan điểm giữa các thành viên; đôi khi xảy ra xung đột nhỏ…
+ Ý nghĩa: học sinh sẽ biết cách giới thiệu về một tác phẩm về quy trình, các bước tiến hành sao cho hiệu quả nhất.
Bài 3: Trình bày ý kiến đánh giá, bình luận một vấn đề xã hội
- Nội dung: Trình bày ý kiến đánh giá, bình luận một vấn đề xã hội
- Yêu cầu:
+ Nêu được vấn đề xã hội cần đánh giá, bình luận
+ Làm rõ được bản chất và vai trò của vấn đề trong đời sống xã hội
+ Trình bày được ý kiến đánh giá, bình luận của cá nhân về vấn đề; biết phân tích, đánh giá ý kiến của người khác
+ Rút ra được ý nghĩa của việc đánh giá, bình luận về vấn đề
+ Thể hiện sự tôn trọng ý kiến, quan điểm của người khác đối với vấn đề bàn luận
- Thách thức và ý nghĩa hoạt động:
+ Thách thức: khó khăn trong việc thống nhất ý kiến giữa các thành viên; công việc phân chia chưa được đồng đều; phần chuẩn bị nội dung của mỗi người không giống nhau…
+ Ý nghĩa: học sinh sẽ học được cách đưa ra và bình luận về một vấn đề xã hội, từ đó nắm và hiểu được vấn đề bàn luận.
Bài 4: Thảo luận về một vấn đề trong đời sống (Hình thành lối sống tích cực trong xã hội hiện đại)
- Nội dung: Thảo luận về một vấn đề trong đời sống (Hình thành lối sống tích cực trong xã hội hiện đại)
- Yêu cầu:
+ Chọn được vấn đề thảo luận có ý nghĩa, gần gũi với trải nghiệm của tuổi trẻ học đường
+ Nêu được các khía cạnh cụ thể của vấn đề và những cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề
+ Thể hiện được quan điểm rõ ràng về vấn đề với lí lẽ thuyết phục và bằng chứng phù hợp, sinh động trong từng ý kiến phát biểu
+ Thể hiện được thái độ tôn trọng lẫn nhau trong thảo luận
- Thách thức và ý nghĩa hoạt động:
+ Thách thức: có những ý kiến tranh luận trái chiều đôi khi không tìm được hướng giải quyết, xảy ra mâu thuẫn trong quá trình thảo luận; lượng công việc phân chia không được đồng đều; các ví dụ chưa sát với thực tế…
+ Ý nghĩa: bày tỏ được thái độ hưởng ứng tích cực đối với đề tài, vấn đề thảo luận, giúp học sinh nắm được cách khai thác một vấn đề trong đời sống
Bài 5: Trình bày kết quả nghiên cứu
- Nội dung:
+ Giới thiệu được vấn đề nghiên cứu, lý do chọn đề tài
+ Trình bày khái quát những kết quả nghiên cứu chính
+ Sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để nội dung trình bày được rõ ràng và hấp dẫn.
- Thách thức và ý nghĩa hoạt động:
+ Thách thức: một số đề tài khó, việc tìm kiếm thông tin khó khăn; lựa chọn những hình ảnh, biểu đồ chưa được phù hợp; cách trình bày chưa truyền tải được hết thông điệp.
+ Ý nghĩa: người nói có thể học được cách làm thế nào để làm và trình bày một kết quả nghiên cứu mang tính khoa học. Giúp người thực hiện hiểu rõ thêm về một vấn đề của cuộc sống.
II. LUYỆN TẬP VÀ VẬN DỤNG
1. Đọc
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Huyền diệu
Xuân Diệu
Câu hỏi 1. Bạn hiểu như thể nào về nhan đề của bài thơ? Nhan đề ấy có ý nghĩa định hướng việc đọc tác phẩm như thế nào?
- Nhan đề của bài thơ “Huyền diệu” gợi cho người đọc liên tưởng đến một cái gì đó rất lung linh, trừu tượng, vô thực nhưng lại đẹp đến lạ thường, như một thứ phép màu nhiệm kỳ.
- Nhan đề đó mở ra trong tâm trí người đọc tiếp đến sẽ là một cái gì đó rất trừu tượng, rất đẹp nhưng rất khó nhận biết. Có thể là những âm thanh, hương thơm… về cái gì đó mơ hồ nhưng truyền tải một thông điệp sâu sắc về cuộc sống.
Câu hỏi 2. Việc chọn câu thơ của Bô-đơ-le làm đề từ có ý nghĩa gì?
Nguyên văn câu thơ này khi được dịch ra Tiếng Việt có nghĩa là “Hương thơm, màu sắc, âm thanh tương ứng với nhau” => Tác giả muốn nói đến sự hòa hợp giữa hương thơm, màu sắc và âm thanh, đó chính là sự tương giao và là sự tương ứng giữa các giác quan với nhau, từ đó gợi ra một vẻ đẹp mới, một hình ảnh lạ cho thơ.
Việc lựa chọn câu thơ của văn hào người Pháp làm lời đề từ đã thể hiện một cách dẫn chuyện đầy táo bạo, gợi mở ra cho người đọc một không gian hoàn toàn mới – nơi mà có hương thơm, màu sắc và âm thanh hòa hợp. Nó như một cánh cửa, dẫn người đọc, người nghe bước vào một thế giới huyền diệu, nơi hương thơm đang ngự trị, màu sắc và âm thanh hòa hợp lạ thường khiến người đọc vừa không khỏi bỡ ngỡ, giật mình, vừa cảm thấy mới mẻ và thích thú.
Câu hỏi 3. Nêu ấn tượng bao trùm về bài thơ và lí giải nguyên nhân đưa đến ấn tượng ấy.
- Hiện tượng bao trùm toàn bài thơ chính là sự kết hợp hài hòa giữa 3 yếu tố hương thơm, màu sắc và âm thanh. Về hương thơm, có hơi say của men rượu, hương hoa thơm ngát. Về màu sắc, có màu của hoa cỏ, của lá rơi. Về âm thanh, có khúc nhạc thơm, khúc nhạc hường, hơi thở, tiếng gió, suối, chim, khóc người, tiếng đập của trái tim… Tất cả tạo nên một bức tranh trữ tình hài hòa, nơi mà mùi hương, màu sắc và âm thanh hòa hợp một cách lạ thường.
- Nguyên nhân đưa đến hiện tượng ấy: có lẽ qua lăng kính trữ tình cùng cách cảm nhận đầy tinh tế của ông hoàng thơ tình Việt Nam, sự cảm nhận về hương thơm, màu sắc và âm thanh của ông lên đến một tầm cao mới. Từ những sự vật rất nhỏ, tưởng chừng như chẳng ai quan tâm, để ý, ông đã ghép chúng lại với nhau và tạo nên một sự hữu ý đầy nghệ thuật. Hóa ra chúng lại hợp đến vậy khi đứng cạnh nhau như một phép màu huyền diệu. Đây quả là một phát hiện vĩ đại trong thơ Xuân Diệu.
Câu hỏi 4. Những tri thức ngữ văn nào đã học cần được vận dụng để việc đọc và thưởng thức bài thơ đạt hiệu quá?
Những tri thức ngữ văn được vận dụng để việc đọc và thưởng thức bài thơ đạt hiệu quả: khái niệm về thơ trữ tình hiện đại; về cấu tứ của một bài thơ trữ tình; yếu tố tượng trưng trong thơ trữ tình; ngôn ngữ văn học.
Câu hỏi 5. Chỉ ra những kết hợp từ ngữ mà bạn cho là có tính chất khác thường trong bài thơ.
Ngay từ câu mở đầu, Xuân Diệu đã làm cho người đọc thấy thật khó hiểu khi ông lại lựa chọn câu thơ bằng tiếng Pháp của Bô- đơ- le trong bài thơ Tương Giao để làm câu đề từ. Nguyên văn câu thơ này khi được dịch ra Tiếng Việt có nghĩa là “Hương thơm, màu sắc, âm thanh tương ứng với nhau”. Và Xuân Diệu làm như vậy là có lý do của mình, tác giả muốn nói đến sự hòa hợp giữa hương thơm, màu sắc và âm thanh, đó chính là sự tương giao và là sự tương ứng giữa các giác quan với nhau, từ đó gợi ra một vẻ đẹp mới, một hình ảnh lạ cho thơ. Và bởi Xuân Diệu là một trong số các nhà thơ đã chịu ảnh hưởng cảm quan tương ứng của Bô- đơ- le, vậy nên ông đã viết nên rất nhiều ý lạ cho những câu thơ của mình.
Những kết hợp từ ngữ bất thường trong bài thơ:
- khúc nhạc thơm
- say người
- hương thấm tận xương tủy
- ngừng thở để cảm nhận hương hoa
- giọng suối, lời chim
- uống thơ tan trong khúc nhạc
- ngừng hơi nghe tiếng trái tim
- lá run sau trận gió im lìm
Câu hỏi 6. Viết đoạn văn (Khoảng 200 chữ) nói về vẻ đẹp của bài thơ theo cảm nhận của bạn.
Bài thơ được tác giả cảm nhận rất rõ nét những sắc cảnh xung quanh mình, từ “khúc nhạc thơm” làm say đắm lòng người “thấm tận qua xương tủy”, cái âm điệu thần tiên ấy làm cho tác giả “thấm tận hồn”. Hay như “khúc nhạc hường” đã dẫn lối chúng ta bước vào “thế giới của Du Dương”, khi đắm chìm trong đó “hoa” và “hương” sẽ phảng phất ngay bên. Từ “giọng suối” tới “lời chim” và “tiếng khóc người” hãy cứ để bản thân “uống thơ” và “tan trong khúc nhạc” sẽ thấy “ngọt ngào kêu gọi thuở xa khơi”. Và kể cả là khi khúc nhạc kia đã “ngừng im” thì hãy cứ cầm hơi mà lắng nghe trái tim, nó vẫn cứ “run hoài” như những “chiêc lá” cho dù “trận gió”, bão táp đã qua đi từ hồi nào. Hồn thơ Xuân Diệu, một cái hồn luôn khát khao giao cảm với đời, một hồn thơ luôn luôn rộng mở, chẳng để lòng mình khép lại bao giờ, một hồn thơ ngày ngày vẫn tha thiết, bồi hồi, rạo rực, băn khoăn, và tôi chính tôi đã trót yêu cái hồn ấy tự bao giờ. Và thi nhân Hoài Thanh, ông đã từng nhận xét về Xuân Diệu thế này: “Xuân Diệu tha thiết, rạo rực bởi niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống, thèm sống đến mãnh liệt và thèm yêu đến điên cuồng với niềm khát khao được giao cảm với đời”. Quả thật không thể phủ nhận khi cho rằng Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, ông mang một hồn thơ tràn ngập tính nhân văn, giọng thơ linh hoạt, ngôn ngữ sáng tạo, độc đáo kết hợp với cách diễn đạt hấp dẫn, lôi cuốn được nhiều độc giả. Bài thơ chứa đựng cả bầu trời tâm tư cũng như cảm xúc của nhà thơ, qua đó đã thể hiện được nỗi niềm khát khao, mong ước hòa nhập với cuộc đời của tác giả Xuân Diệu. Tác phẩm là một thành công lớn đã góp phần không nhỏ trong việc đưa tên tuổi của nhà thơ vụt sáng trên bầu trời thi ca Việt Nam.
2. Viết
Chọn một trong các đề sau:
Đề 1. Để tạo nên thành công của một tác phẩm truyện, việc tác giả chọn được điểm nhìn độc đáo về đối tượng miêu tả, thể hiện giữ vai trò rất quan trọng. Hãy chọn phân tích một truyện mà bạn cho là có điểm nhìn độc đáo.
Đề 2. Giới thiệu và phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo.
Đề 3. Trình bày ý kiến của bạn về một vấn đề xã hội đang được nhiều người quan tâm và khiến bạn thực sự thấy trăn trở.
Đề 4. Lập đề cương cho báo cáo nghiên cứu về một vấn đề bạn muốn tìm hiểu và có điều kiện thu thập tài liệu.
Đề 1:
Bài làm
Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, (1920-2007), quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và đã có sáng tác đăng báo trước Cách mạng tháng Tám 1945. Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn. Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Nội dung chính: Tình yêu làng quê và lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân phải dời làng đi tản cư đã được thể hiện chân thực, sâu sắc và cảm động ở nhân vật ông Hai trong truyện “Làng”. Nghệ thuật: Tác giả đã thành công trong việc xây dựng tình huống truyện, trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
Câu chuyện kể về ông Hai Thu, người làng Chợ Dầu. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, theo lời kêu gọi của cụ Hồ, toàn dân tham gia kháng chiến, kể cả hình thức tản cư. Do hoàn cảnh neo đơn, ông Hai đã cùng vợ con lên tản cư ở Bắc Ninh dù rất muốn ở lại làng chiến đấu. Ở nơi tản cư, tối nào ông cũng sang nhà bác Thứ bên cạnh để khoe về làng mình rằng làng ông có nhà cửa san sát, đường thôn ngõ xóm sạch sẽ. Ông khoe cái phòng thông tin, cái chòi phát thanh và phong trào kháng chiến của làng, khi kể về làng ông say mê, háo hức lạ thường. Ở đây, ngày nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến, ông vui mừng trước những chiến thắng của quân dân ta. Nhưng rồi một hôm, ở quán nước nọ, ông nghe được câu chuyện của một bà dưới xuôi lên tản cư nói rằng làng Dầu của ông theo giặc. Ông vô cùng đau khổ, xấu hổ, cúi gầm mặt đi thẳng về nhà, suốt ngày chẳng dám đi đâu, chẳng dám nói chuyện với ai, chỉ nơm nớp lo mụ chủ nhà đuổi đi. Buồn khổ quá, ông tâm sự với đứa con út cho khuây khoả. Ông chớm có ý định về làng để xác minh sự thật nhưng lại tự mình phản đối vì nghĩ về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ bởi làng ông đã theo Tây mất rồi. Thế rồi một hôm có ông chủ tịch dưới xã lên chơi cải chính tin làng ông theo giặc. Ông lão sung sướng mùa tay đi khoe khắp làng rằng nhà ông đã bị đốt nhẵn. Tối hôm ấy, ông lại sang nhà bác Thứ kể về làng mình.
Nhan đề tác phẩm chỉ có một từ duy nhất, đó là một danh từ chung “Làng”. Đặt tên truyện là Làng – tên gọi gần gũi, thân mật với bất kì ai đã mang lại tính khái quát cho tác phẩm: tình yêu làng, yêu nước không phải là tình cảm của riêng ông Hai mà còn là tình cảm chung của những người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp . Tên truyện đã thể hiện chủ đề tác phẩm. Về ngôi kể, truyện được kể theo ngôi thứ ba làm cho câu chuyện có tính khách quan và người kể giấu mình nhưng dường như lại có mặt ở khắp mọi nơi trong văn bản, người kể chuyện có thể biết hết mọi việc, mọi hành động, mọi tâm tư tình cảm của nhân vật. Về điểm nhìn trần thuật, truyện được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của ông Hai tạo sự chân thực, gần gũi cho câu chuyện vầ khiến tác phẩm dễ đi sâu miêu tả tâm lí nhân vật trong những tình huống khác nhau. Đặc biệt, điểm nhìn trần thuật làm nổi bật tâm trạng, tính cách nhân vật qua đối thoại, độc thoại, đấu tranh nội tâm qua cử chỉ và hành động.
Truyện Làng đã xây dựng được một tình huống truyện làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước ở người nông dân. Ông Hai trong truyện là người rất yêu cái làng chợ Dầu của mình, luôn hãnh diện khoe về làng, ấy thế mà ông lại phải nghe cái tin làng ông theo giặc, từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên đó là: tình huống mụ chủ nhà có ý định đuổi gia đình ông lão đi và tình huống tin làng chợ Dầu theo Tây được cải chính. Tình huống ấy khiến ông đau xót, tủi hổ, day dứt trong sự xung đột giữa tình yêu làng quê và tình yêu nước, mà tình cảm nào cũng mãnh liệt, thiết tha. Đặt nhân vật vào tình huống gay gắt ấy, tác giả đã làm bộc lộ sâu sắc cả hai tình cảm nói trên ở nhân vật và cho thấy tình yêu nước, tinh thần kháng chiến lớn rộng bao trùm lên tình yêu làng, nó chi phối và thống nhất, mọi tình cảm khác trong con người Việt Nam thời kháng chiến.
Truyện khắc hoạ thành công nhân vật ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước tha thiết. Đặc biệt, việc đặt nhân vật vào tình huống cụ thể góp phần thể hiện tính cách, diễn biến tâm trạng nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật lúc đối thoại, lúc độc thoại mang đậm chất nông thôn, nhuần nhuỵ mà đặc sắc, gợi cảm. Ông Hai chính chân dung sống động, đẹp đẽ của người nông dân thời kỳ đầu kháng chiến.
Đề 2:
Bài làm
Với giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, những áng thơ văn Tố Hữu để để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm lắng sâu. “Việt Bắc” là một bài thơ nổi tiếng tác giả viết năm 1954. Cảm xúc, hình ảnh, nghĩ suy trong tác phẩm mà nhà thơ gửi tới người đọc khiến cho ta càng thêm yêu mến và trân quý tâm hồn, tài năng Tố Hữu. Bức tranh tứ bình trong bài cũng là một nét đặc sắc đã lưu lại trong tâm trí người đọc nhiều ấn tượng.
Nỗi thơ thiết tha bồi hồi ấy đọng lại trong bức tranh tứ bình về con người và cảnh vật thiên nhiên Tây Bắc, trước hết đó là sự phác họa những nét cảnh mùa đông:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Một mùa đông rực rỡ và ấm nồng nơi núi rừng Tây Bắc đã được nhà thơ phác họa một cách sinh động. Đó là mùa đất trời nơi đây tràn ngập sắc “đỏ”, “tươi” rực rỡ của hoa chuối rừng trên nền xanh trầm tĩnh của cỏ cây rừng lá, của ánh nắng ấm áp lửng lơ, tràn ngập khắp không gian khoáng đạt. Trên cái nền thơ mộng ấy, con người Việt Bắc xuất hiện với vẻ đẹp khỏe khoắn trong tư thế lao động: “dao gài thắt lưng”. Hai từ “nắng ánh” khiến lời thơ Tố Hữu như bừng sáng, góp phần làm nổi bật hơn vẻ đẹp của con người trong lao động, những con người đang trong tư thế vươn lên đỉnh đèo. Mùa đông trong thơ xưa thường diễn tả cái tiêu điều, hiu quạnh, những cơn gió lạnh và một bầu không khí man mác buồn. Đông Hồ từng viết:
“Em nhớ: một sáng ngày mùa đông
Gió bấc ào ào tiếng hãi hùng
Theo khe cửa sổ gió thổi rú
Chỉ nghe tiếng gió mà lạnh lùng”
Hay như nhà thơ Ngô Chi Lan từng bày tỏ:
“Lò sưởi bên mình ngọn lửa hồng
Giải buồn chén rượu lúc sầu đông
Tuyết đưa hơi lạnh xông rèm cửa
Gió phẩy mùa băng giải mặt sông”
Cái buồn, cái sầu ấy ta lại không bắt gặp ở mùa đông trong thơ Tố Hữu. Nhà thơ viết về mùa đông Tây Bắc lại thắm tươi và nồng ấm sắc màu, sức sống. Con người trong cảnh sắc ấy khỏe khoắn và chủ động.
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Đó là cặp câu thơ lục bát tiếp theo nhà thơ miêu tả về thiên nhiên và con người Việt Bắc khi xuân về. Sự dịu dàng, trong trẻo, tinh khôi của sắc trắng hoa mơ “nở trắng rừng” đã làm lòng người đọc biết bao xao xuyến. Trên nền cảnh ấy, con người hiện ra trong công việc của cuộc sống giản dị đời thường. Động từ “chuốt” đã tinh tế làm toát lên vẻ tài hoa, cần mẫn, khéo léo của con người lao động nơi đây. Sự thanh tao thơ mộng của đất trời, sự giản dị, khéo léo của con người cùng hòa điệu làm ý thơ Tố Hữu càng thêm nổi bật và ấn tượng.
Nhà thơ Bàng Bá Lân từng bày tỏ cảm nghĩ của mình qua những dòng thơ trong “Trưa hè”:
“Trời lơ lửng cao vút không buông gió
Đồng cỏ cào khô cánh lượt hồng
Êm đềm sóng lụa trên trên lúa
Nhạc ngựa đường xa lắc tiếng đồng
Quán cũ nằm lười trên sóng nắng
Bà hàng thừa khách ngủ thiu thiu
Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm
Đứng lặng trong mây một cánh diều”
Mùa hè với Bàng Bá Lân là vậy, bình yêu mà và cùng đáng nhớ. Còn với Tố Hữu, mùa hè Việt Bắc là:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Sắc màu tươi sáng của rừng phách và âm thanh rộn rã của tiếng ve được nhà thơ tái hiện chân thực. Từ “đổ” trong câu thơ được xem như nhãn tự bộc lộ trọn vẹn ý nghĩ của nhà thơ. Phải chăng, nhà thơ đang muốn nói đến sự tương quan kỳ diệu của thanh âm và màu sắc đã khiến cho cảnh vật nơi đây như có linh hồn, có sự giao cảm mạnh mẽ. Người Việt Bắc hiện ra trong một vẻ gì đó thật lặng lẽ nhưng vẫn rất hiền hòa như một điểm nhấn lắng sâu giữa không khí sôi động của thiên nhiên đất trời mùa hạ.
Được nhắc đến cuối cùng, nhưng cách thể hiện của nhà thơ về mùa thu vẫn khiến người đọc không khỏi ấn tượng và lưu luyến. Một Việt Bắc trong trẻo. Một Việt Bắc thanh tịnh dưới ánh trăng. Đó là những gì ta cảm nhận được qua hai câu thơ:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Trên cái nền hiền hòa của thiên nhiên ấy con người hiện ra với vẻ thắm thiết ân tình trong tiếng hát thân thương cũng là tiếng lòng thủy chung Cách mạng đượm tình sâu nghĩa thẳm.
Để có thể phác họa nên bức tranh tứ bình của cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Bắc sống động như vậy, nhà thơ đã vận dụng khéo léo đồng thời bút pháp cổ điển và hiện đại. Sự tinh tế và tài hoa ấy đã góp phần giúp cho bức tranh tứ bình trong “Việt Bắc” có một vị trí đặc biệt trong lòng người đọc bao thế hệ, góp phần làm đa dạng hơn những bài thơ, áng văn viết về “bức tranh tứ bình”.
Đề 3:
Bài làm
“Vô cảm” là không có cảm giác, không có tình cảm, không xúc động trước một sự vật, hiện tượng, một vấn đề gì đó trong đời sống. Bệnh vô cảm là căn bệnh của những người không có tình yêu thương, sống dửng dưng trước nỗi đau của con người, xã hội, nhân loại...
Trải qua các cuộc chiến tranh chống quân xâm lược, những cuộc đọ sức với thiên tai khắc nghiệt, nhân dân ta đã có truyền thống đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Dường như càng qua gian khổ, đau thương, mất mát con người lại sống gần nhau, quan tâm, giúp đỡ nhau nhiều hơn. Tình làng nghĩa xóm, thương người như thể thương thân đã trở thành một đạo lí của dân tộc: “Bán anh em xa mua láng giềng gần”.
Hiện nay, trong cuộc sống vật chất ngày càng được cải thiện hơn, đầy đủ hơn, người ta dễ có xu hướng lo vun vén cho bản thân và gia đình mình, ít quan tâm đến những vấn đề xã hội. Trước kia, ông cha ta đã phê phán lối sống chỉ biết vun vén cho riêng mình. Cuộc sống quanh ta hiện nay không thiếu những người như thế. Họ sống thờ ơ với mọi việc đang diễn ra, nhà nào nào đóng cửa biết nhà nấy. Nhà hàng xóm có hoạn nạn, có con cái bị rơi vào cạm bẫy của các tệ nạn xã hội họ cũng bàng quan như không biết. Đi đường gặp người bị tai nạn, họ cũng bỏ qua như không nhìn thấy. Thấy lũ trẻ cái nhau thậm chí đánh nhau họ cũng làm ngơ. Trước cảnh khổ đau của những người tàn tật, bất hạnh, họ cũng không mảy may xúc động...Bệnh vô cảm đã làm cho con người như vô tri, vô giác, không thể hòa nhập với cộng đồng.
Trong công việc, bệnh vô cảm làm cho con người chẳng khác nào một cái máy. Họ làm việc một cách đơn điệu, tẻ nhạt. Con người mắc bệnh vô cảm trong công việc, chắn chắc hiệu quả công việc sẽ không thể nào cao, thậm chí còn làm trì trệ, ảnh hưởng nghiêm trọng.
Là cán bộ, công chức của Nhà nước, mắc bệnh vô cảm sẽ dẫn đến xa rời nhân dân, tắc trách trong công việc. Một bác sĩ vô cảm không thể có tình thương người bệnh, nhất là những người bệnh nghèo. Không thiếu những trường hợp vì vô cảm mà người bệnh không được chăm sóc chu đáo, dẫn đến những cái chết đáng tiếc. Một kĩ sư vô cảm có thể dửng dưng trước những sinh mạng con người do công trình không đạt chất lượng của mình gây ra. Một tài xế vô cảm sẵn sàng xem thường tính mạng của người khác khi phóng nhanh vượt ẩu. Một thầy giáo vô cảm chỉ nghĩ bài giảng cho xong chuyện, còn nói gì đến tình nghĩa thầy trò, tận tâm dạy bảo, nhất là những học trò còn học kém, gia đình khó khăn. Cán bộ vô cảm sẽ không thể nhìn thấy hoàn cảnh của mỗi người dân, không thấy những nỗi bức xúc của nhân dân, giúp đỡ nhân dân tận tâm, tận tình.
Gần đây thôi, nếu bạn có tình cờ xem qua các trang báo sẽ ngỡ ngàng vô cùng với “sự nhẫn tâm” đến đáng sợ của con người: Một thanh niên gào khóc thảm thiết trên chuyến xe buýt khi kẻ gian lấy mất chiếc bóp của anh ấy nhưng đáp lại là sự im lặng đến xót xa. Và đau lòng hơn nữa khi xem cảnh bao người đi “hôi bia” khi chuyến xe định mệnh của người tài xế đáng thương lật trên đường. Đáp lại cho tiếng khóc của anh là tiếng cười hả hê của những người đi nhặt của “trên trời rơi xuống”. Viết đến đây tôi lạnh cả người và tự hỏi lòng trắc ẩn, tình thương của con người hiện đại có còn hay không? Phải chăng khi xã hội phát triển con người lại đánh mất tình yêu thương?
Là bản thân học sinh chúng ta hãy ra sức chống bệnh vô cảm trong việc làm, học tập hằng ngày của mình. Hãy quan tâm giúp đỡ bạn bè. Hãy chia sẻ những gì mình có thể cho những cuộc đời bất hạnh quanh ta. Đừng để một ngày nào đó khi nhìn thấy bà lão ăn xin, một đứa bé côi cút bơ vơ, một người khách lỡ đường mà trái tim bạn không lên tiếng. Hãy thắp sáng, hãy gieo mầm cho những yêu thương trong trái tim bạn, trái tim tôi, trái tim tất cả chúng ta.
Tình thương là cái quí giá của con người; bệnh vô cảm đã làm mất phẩm chất ấy, không khác gì biến dòng máu hồng hào trở thành màu xanh. Trái tim mỗi người cần thắp sáng ước mơ, khát vọng, ý chí và sự sáng tạo gắn bó với cộng đồng. Điều đó sẽ chống được bệnh vô cảm và làm cho cuộc đời của con người.
Đề 4:
Bài làm
"Anh có về Kinh Bắc quê em, mà nghe quan họ mà xem làng nghề
Con sông Cầu in bóng trăng thề người đi người ở người về với ai..."
Những câu ca ngọt ngào, đằm thắm ấy chính là dân ca quan họ Bắc Ninh. Làn điệu dân ca quan họ từ lâu đã trở thành một nét đẹp văn hóa trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh nói riêng và người Việt Nam nói chung. Tại kì họp lần thứ tư của Ủy ban liên Chính phủ Công ước UNESCO bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ngày 30 tháng 9 năm 2009, dân ca quan họ được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể chỉ sau nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên và ca trù. Điều này chứng tỏ dân ca quan họ đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Hiện nay, dân ca quan họ xuất hiện ở rất nhiều nơi trên cả nước nhưng nhiều nhất vẫn là Bắc Ninh. Hầu hết các làng ở Bắc Ninh đều có những địa điểm sinh hoạt hát quan họ. Tuy nhiên, cái nôi đầu tiên của quan họ bắt nguồn từ Làng Diềm hay còn gọi là làng Viêm Xá, thuộc phường Hòa Long, thành phố Bắc Ninh. Đây là nơi bà Thủy tổ của quan họ xuất hiện và truyền dạy lời ca cho mọi người. Qua năm tháng, quan họ không những giữ được nguyên vẹn lối hát truyền thống mà còn xuất hiện thêm nhiều lối hát mới phong phú và đa dạng.
Hiện tại, không ít những bài nghiên cứu, đánh giá của những nhà nghiên cứu đầu ngành về dân ca quan họ. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu quan họ trong không gian văn hóa đương đại tại làng Diềm. Mục đích nghiên cứu đề tài: Tìm hiểu dân ca quan họ tại làng Diềm, phường Hòa Long, thành phố Bắc Ninh để thấy được nét độc đáo, đặc sắc và đặc biệt của quan họ trong không gian văn hóa làng Diềm. Phương pháp nghiên cứu: Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp so sánh, phân tích - tổng hợp.
Khác với các loại hình diễn xướng khác, dân ca quan họ Bắc Ninh nổi tiếng với bạn bè gần xa bởi âm điệu ngọt ngào, trong trẻo, mượt mà, tha thiết. Cho đến nay, vẫn chưa có tài liệu nào ghi chép chính xác về thời gian ra đời của làn điệu này. Có người cho rằng quan họ xuất hiện lần đầu tiên vào thế kỉ XI, ý kiến khác lại nói vào thế kỉ XVII. Dù là thời gian nào thì quan họ vẫn được coi là phương tiện lưu giữ hồn cốt của văn hóa xứ Kinh Bắc. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, quan họ cũng có sự thay đổi, bổ sung. Chúng ta có thể chia thành quan họ truyền thống và quan họ mới.
Trước hết, quan họ truyền thống là lối hát quan họ ra đời đầu tiên. Nó chỉ tồn tại ở 49 làng quan họ gốc tại xứ Kinh Bắc. Quan họ truyền thống đòi hỏi người hát phải am hiểu luật lệ, cách hát. Lúc bấy giờ, người ta không gọi là "hát quan họ" mà là "chơi quan họ" bởi cho rằng quan họ là một thú vui tao nhã, thanh tao. Quan họ truyền thống không có nhạc đệm, chủ yếu là sự đối đáp của các liền anh liền chị vào độ "xuân thu nhị kì". Khác với quan họ truyền thống, quan họ mới ít nhiều đã có sự cải biên. Hình thức diễn xướng cũng trở nên đa dạng hơn bao gồm hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa,... Tính đến năm 2016, có tất cả 67 làng quan họ được xếp vào danh sách bảo tồn và phát triển, trong đó có 44 làng quan họ thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Làng Diềm thuộc địa phận phường Hòa Long, nơi đây lưu giữ rất nhiều nét đẹp văn hóa của làng quê xứ Kinh Bắc. Lớn lên trên đất tổ của quan họ, người dân cũng rất ngọt ngào, đằm thắm. Từ trong cách ứng xử, nói năng, đi lại, người dân làng Diềm đều toát lên vẻ mộc mạc, nhẹ nhàng. Họ hiền lành, chất phác và đặc biệt hiếu khách như những câu quan họ mà ta đã từng nghe:
"Khách đến nhà là hát
Khách uống trà là pha"
hay
"Người ơi, người ở đừng về..."
Dường như người con của miền quê quan họ đều rất tình - một cái tình ngọt ngào như những lời ca. Không chỉ các liền anh, liền chị khi hát mới duyên dáng mà cái duyên ấy hiện hữu ngay cả trong đời sống hàng ngày. Đó là nét duyên được di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bởi vậy, quan họ mới trở nên đằm thắm, mượt mà đến như vậy.
Đặt dân ca quan họ trong không gian văn hóa làng Diềm, ta có thể thấy được nét độc đáo, hấp dẫn của làn điệu quan họ nơi đây. Ngày xưa, do hạn chế khi di chuyển nên sự giao lưu giữa Diềm và các làng khác gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy, lối hát ở Diềm có điểm khác biệt, "cổ" hơn so với những nơi khác. Các liền anh, liền chị thường sử dụng lối hát chậm rãi, khoan thai, ít các bài lí có tiết tấu nhanh. Chính vì thế, những luyến láy hay tiếng đệm trong lời ca như "Dôông ôi à tô ông tang" "Dôông tang tết, tết tang" "tềnh tếnh"... cũng bị tiết chế. Một số bài "Bóc thư", "Tình thư", "Bóng giăng loan", "Ăn ở trong rừng" không được chia thành trổ ở Diềm.
Khi nhắc đến quan họ làng Diềm, không thể không nhắc đến bốn trụ cột chính hay bốn nghệ nhân kì cựu của quan họ làng Diềm. Đó là các cụ Ngô Thị Nhị, Trần Thị Phụng, Nguyễn Thị Bản, Ngô Thị Lịch. Họ đều là những nghệ nhân lâu đời, thuộc cả trăm ngàn làn quan họ cổ, đã được nhà nước phong danh nghệ nhân ưu tú.
Tại đây, cứ mỗi độ xuân về, ngày hội hay ngày rằm sẽ là ngày họp câu lạc bộ quan họ của làng. Nhiều lúc, chẳng cần nhạc đệm, tự lời đối đáp đã mang nét nhạc du dương. Từng làn điệu như rót vào tâm hồn người nghe nhờ các lời ngân: "Hừ la, hừ la a la..em hỡi hà, ơi hội hừ...".
Đặc biệt, dân làng cũng như chính quyền và các cấp địa phương rất chú trọng giữ gìn, bảo tồn dân ca quan họ. Ở trường Tiểu học Hòa Long, bên cạnh việc trau dồi, rèn luyện kĩ năng, kiến thức, nhà trường đã đưa quan họ vào dạy như một môn học trong các tiết học ngoại khóa. Đây là hoạt động thiết thực giúp bồi dưỡng tình yêu thương, tấm lòng nhân hậu, thủy chung ở các em học sinh. Từ đó, giúp các em phát triển nhân cách, đạo đức tốt đẹp và thêm yêu quê hương, đất nước.
Với mục đích giữ gìn, bảo tồn dân ca quan họ và phát triển du lịch, chính quyền đã cho xây dựng nhà hát dân ca quan họ Bắc Ninh. Công trình có tổng diện tích là 19.400 mét vuông, với mức kinh phí hơn 178 tỉ đồng. Điều này cho thấy dân ca quan họ nhận được sự quan tâm, sát sao của người dân và các cấp chính quyền. Nơi đây hứa hẹn sẽ là điểm đến du lịch hấp dẫn. Đồng thời, tạo động lực cho mỗi nghệ sĩ không ngừng nỗ lực sáng tạo, cống hiến cho nghệ thuật.
Mặc dù xã hội phát triển nhưng những giá trị văn hóa, tinh thần của quan họ làng Diềm vẫn được gìn giữ, phát huy. Tiếng hát quan họ thiết tha, nghĩa tình của các liền anh, liền chị vẫn làm say đắm biết bao du khách thập phương trong và ngoài nước. Đây chính là sức hút, nét hấp dẫn của quê hương quan họ.
Mỗi một làng quan họ đều mang những nét riêng nhưng nếu đã nghe quan họ thì không thể bỏ qua làn điệu làng Diềm. Làn điệu dân ca mượt mà đằm thắm là một nét đẹp văn hóa và có tầm ảnh hưởng to lớn đối với không gian văn hóa làng Diềm. Quan họ không chỉ là niềm tự hào của người dân làng Diềm mà còn là toàn thể người dân Việt Nam. Chúng ta cần phải cố gắng, nỗ lực để giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống như dân ca quan họ làng Diềm.
3. NÓI VÀ NGHE
Chọn thực hiện theo nhóm học tập một trong các nội dung sau:
Nội dung 1. Giới thiệu một tác phẩm truyện nổi tiếng đang được giới trẻ quan tâm tìm đọc.
Nội dung 2. Có những tác phẩm nghệ thuật nào từng để lại ấn tượng sâu sắc với bạn? Hãy nói về tác phẩm ấy.
Nội dung 3. Thảo luận về cách thực hành "lối sống xanh”.
Nội dung 1:
Cuốn sách nào xuất hiện ở nhà cũng cần một lý do, hợp lý cũng được, ngốc nghếch cũng được. Tôi sẽ không phủ nhận sự thực rằng chọn Chinatown đầu tiên vì nơi chị/cô Thuận từng học là giấc mơ, là điều luôn quyến rũ mình: Paris, La Sorbonne, và nước Pháp. Thứ đến, đó là sự mê đắm nằm trong tiếng gọi Hà Nội cùng những xung đột, mâu thuẫn, trớ trêu đan xen nơi nhân vật được đặt vào
Đọc Chinatown của Thuận, tôi nghĩ đến Sơn Táp. Không phải phong cách văn chương của hai nữ tác giả ấy giống nhau mà bởi khi nghĩ đến một thứ văn gì đó thật lạ, thật khác với những gì thường hay đọc, nhất định tôi sẽ nhớ đến hai người phụ nữ này đầu tiên.
Chinatown là dòng chảy mênh mông của kí ức cuộc đời hết người này đến người nọ nối tiếp nhau, chồng chéo lên nhau.
Chinatown là quá khứ, là thực tại được dồn trong hai tiếng đồng hồ khi métro phải dừng lại dở chừng vì sợ khủng bố. Hai tiếng không dài. Đời người cũng không dài. Nhưng Chinatown thì dài, dài thực sự.
Chinatown là suy tư, tưởng niệm, đau đáu từ Việt Nam đến Yên Khê, qua Leningrad rồi dừng bước tại Paris trong thoáng chốc để rồi lại cuồn cuộn theo lộ trình của riêng nó, tuần hoàn, tuần tự.
Chinatown không có tách đoạn, không có chương hồi và cũng chẳng biết nên xếp vào thể loại nào, chủ đề là gì.
Chinatown là điệp trùng những câu văn ngắn nhiều khi không chủ ngữ, chẳng vị ngữ. Điềm điệp thế nhưng lại khiến người ta háo hức, người ta tò mò, người ta không hụt hơi hay băn khoăn đâu là chương cuối, đâu là điểm kết.
Con người thường có thói tọc mạch dù cho đối tượng đối diện mình chẳng phải ngôi sao hay vĩ nhân tầm cỡ thế giới. Khuất khúc một chút, gập gềnh một chút, éo le một chút, ngang trái một chút trong sự hờ hững kể nhưng không vạch hết áo cho người xem lưng… Ngần ấy điều trong Chinatown làm người ta nóng lòng muốn bới móc đào sâu, muốn hóng cho tường tận để mà chẹp miệng, để mà bình luận. Số phận của “tôi” trong Chinatown vừa nghiêm túc nhưng cũng vừa như một trò đùa, vừa điển hình nhưng cũng rất đỗi phổ thông. Người ta không biết Thuận kể ra bao nhiêu điều là thật với chính nguyên liệu là cuộc sống riêng tư của cô. Người ta không biết liệu đây có phải hồi kí hay chỉ là một tác phẩm hư cấu thật khéo để ngỡ như mọi trải nghiệm đều là chân thực. Đó cũng đã là một cái tài khi sống trọn vẹn qua mắt nhìn của một kẻ khác-mình.
Nhân vật xuyên suốt trong truyện ngắn là “tôi” – một người mẹ đơn thân với tấm hộ chiếu CHXHCN Việt Nam, nuôi một đứa con trai trên đất Pháp, ở Belleville trung tâm quận 18 không ai muốn dính dáng. “Tôi” là một nghiên cứu sinh mãi không làm xong luận án tiến sĩ. Hay “tôi” là một người phụ nữ ba mươi chín tuổi với những biến cố của thời cuộc, của cuộc sống riêng tư nghĩ thôi cũng muốn bạc đầu? Hay “tôi” là nhà văn với cuốn truyện I’m yellow lồng ngay trong Chinatown? “Tôi” có lẽ là toàn bộ những vai diễn ấy, mặt nạ ấy những đồng thời cũng không là gì trừ việc tồn tại như một chứng tích về chính cuộc đời biến ảo của mình.
Điệp đi điệp lại trong tác phẩm là những câu văn mang những nội dung, hình thức giống hệt nhau như một sự tự ám thị của bản thân “tôi” để khỏi quên những mạch suy nghĩ khi liên tục, khi rải rác miên man hết việc này sang việc khác, hết người này sang người khác. Hiện ra xung quanh “tôi” là vô vàn những khuôn mặt người mà số phận , hoàn cảnh của họ giống nhau đến mức làm người ta nhệch môi cười khổ sở. Sự tương đồng ấy giữa người với người tạo ra một nhịp điệu chung cộng hưởng với nhau, làm cuộc đời từ đa dạng, đa sắc, đa hình trở nên khuôn hẹp trong sự đơn điệu, trớ trêu và không lời giải đáp.
Yên Khê – quê hương của Âu Phương Thụy, anh kĩ sư người Việt gốc Hoa, chồng của “tôi”, cha của thằng Vĩnh – là bí ẩn đầu tiên. Chinatown hay Chợ Lớn là bí ẩn cuối cùng. Bí ẩn không bật mí. Bí ẩn không lời đáp. Tôi vẫn tin cuộc đời có những điều không cần, không nên cố ép để truy tầm ra đáp án cuối cùng. Chinatown cũng thế, I’m yellow cũng vậy, tất cả chỉ là sự trải lòng của cảm xúc lúc lặp đi lặp lại nhàm chán, tự kỉ; lúc lại trào vọt lên bởi xúc động, kích động; lúc lại rơi xuống đáy sâu của sự mỉa mai hay tự mỉa mai, đau thương hay tự đau thương không nước mắt mà cô lại thành đau đáu, thắc thỏm. Có thể đúng như “tôi” đã nói: Đến chết “tôi” mới hiểu được Thụy, mới tìm ra đáp án của những ám ảnh suốt cuộc đời mình.
Chinatown có đau khổ nhưng không bi lụy. Có chia tay, có gặp gỡ để rồi lại hứa hẹn chia ly hay mãi mãi chỉ là kẻ quan biết đơn sơ. Có trào phúng, châm chích nhưng không phải để trào phúng hay châm chích, hay vạch trần, tố cáo điều gì. Trong mạch văn căng đầy những suy tư, xúc động ẩn sau vẻ dửng dưng, xa vắng của một người đàn bà từng trải, chỉ cần một chút gợi nhắc, tình cảm sẽ vỡ òa ra không cách nào cản lại cho đến khi nó tự lắng mình trong một mạch suy tư khác, để rồi lại đợi chờ cơ hội cuộn lên.
Chinatown là câu chuyện của một người đàn bà.
I’m yellow lại là câu chuyện của một người đàn ông với những nguyên liệu lấy ra từ chính cuộc đời của người đàn bà kia. Hình như, đó cũng chính là sự tự lý giải của “tôi” cho sự biến mất của Thụy trong cuộc đời mình. Bằn bặt không tin tức như thể chưa từng bắt đầu để mà kết thúc, như thể xưa nay chỉ mình tôi “yêu” Thụy, điên cuồng vì Thụy trong vô vọng.
Chinatown bắt đầu từ chuyện tình yêu thuở học trò của “tôi” và cậu học sinh Âu Dương Thụy bị mọi cấp lãnh đạo canh chừng vì sợ là gián điệp của Bắc Kinh. Mở ra từ đó là muôn nghìn những dao động khác nhau từ một cuộc gặp gỡ tình cờ với anh chàng người Pháp lắm mồm nhưng tử tế, những người Tàu mở miệng là Mao Trạch Đông rồi Đặng Tiểu Bình, là bộ mặt của Hà Nội, của Paris trong những thời điểm đặc biệt. Chinatown có những lúc cuồng dại, bướng bỉnh, cố chấp và ích kỷ của “tôi” trong tình yêu với Thụy. Tình yêu ấy làm “tôi” chống lại bố mẹ, chống lại chính những thành kiến, những giả dối, hời hợt bao trọn lấy mình gần 30 năm. Tình yêu ấy làm “tôi” bốc đồng nói rằng mình cũng không phải người Việt; hả hê trong tâm tưởng khi biết đâu một ngày nào đấy, bố mẹ bài Hoa từ A đến Z của mình sẽ nhận một cú vả khi biết tổ tiên 6, 7 đời trước cũng là người Hoa. Tình yêu ấy làm “tôi” dường như hạnh phúc khi được ai đó gọi là Madame Âu. Và cũng chính tình yêu ấy làm “tôi” chán ngán những câu hỏi của những người Hà Nội về Thụy nhưng lại bồn chồn khi chẳng ai hỏi về anh ở Paris. Nhưng đa phần, Chinatown là những suy tư thẳm sâu nhưng không mở hết, chỉ gợi cho người ta tự ngẫm về đời, về người.
Tôi hiểu Chinatown nhưng chắc chắn không hiểu đủ sâu, đủ kĩ vì tôi còn quá trẻ, trải đời chưa nhiều. Đó là cuộc hành trình để nhìn qua thế giới cảm xúc của một người phụ nữ lang bạt hết từ bầu trời này đến bầu trời khác nhưng ở đâu cũng chờ đợi, ở đâu cũng cô đơn, ở đâu cũng lạc lõng. Nhưng tôi nghĩ mình thích nó vì nó gieo vào lòng tôi những cảm xúc thật tự nhiên theo lời tự thuật của nhân vật chính.
Tôi thích nó bởi Chinatown của Thuận làm được điều mà lâu nay tôi chờ đợi: Liệu có ai đó kể cho tôi nghe về Hà Nội, về một thời đại đã qua nhưng không quá xa, vẫn còn rơi rớt đủ nhiều trên những năm 90 của thế kỉ trước rồi trở thành kí ức tuổi thơ của những đứa trẻ chúng tôi? Hà Nội bao cấp, Hà Nội với Liên Xô, Hà Nội với những năm chống giặc Tàu trên biến giới. Hà Nội mở cửa, Hà Nội 1986, Hà Nội Đổi Mới. Hà Nội trong thế giới của Thuận không đẹp mà cũng chẳng thơ. Đó là mảnh đất với con sông Hồng không đủ rộng, nước không đủ sâu. Đó là mảnh đất với óc lợn hấp nồi cơm, chè đậu đen nấu bằng kẹo mậu dịch… để đổi lấy điểm mười rồi tấm bằng đỏ chót. Đó là nơi nặng nề thành kiến, sĩ diện, tráo trở và ngờ vực. Đó là nơi với những bản hợp đồng trách nhiệm hư danh. Chính là như thế nên tôi thích Chinatown bởi phải sống thật, nghĩ thật và dốc lòng thật mới có thể có những dòng chữ cay đắng đến thế.
Nội dung 2:
Có những tác phẩm đọc xong rồi đi vào quên lãng, nhưng có những tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc tựa như một dòng nước chảy qua bồi lên lớp phù sa màu mỡ. Truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm như vậy. Đặc biệt, tác phẩm là một minh chứng rõ ràng nhất cho nhận định: “Một tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc chính là nhờ xây dựng thành công tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật”.
Vậy tình huống truyện là gì? Một tác phẩm tự sự hay, không thể thiếu tình huống truyện. Tình huống là các sự việc, hoàn cảnh diễn ra sự việc được tác giả đặt nhân vật vào đó để bộc lộ đặc điểm, tính cách, phẩm chất của mình. Và dĩ nhiên, việc miêu tả nội tâm nhân vật chính là khắc hoạ những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của nhân vật để qua đó người đọc có một cái nhìn rõ hơn vể nhân vật cũng như tác phẩm. Làng của Kim Lân là một truyện ngắn hay, thành công trong xây dựng tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật. Tác phẩm xoay quanh một sự việc là tin đồn làng Chợ Dầu theo giặc cùng những phản ứng của ông Hai trước, trong và sau sự việc đó. Chính vì thế, tình huống trong tác phẩm cũng chia làm ba giai đoạn: trước khi ông Hai nghe tin; khi ông Hai nghe tin làng mình theo giặc và sau khi nghe tin làng được cải chính. Trong mỗi tình huống, nhân vật ông Hai bộc lộ những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của mình thông qua việc xử lí các tình huống.
Trước khi nghe tin, ông Hai là một người nông dân với những suy nghĩ khá hồn nhiên và tính cách khá đặc biệt. Ông yêu làng nên đi đâu cũng khoe về cái làng của mình, ông tự hào và yêu tất cả mọi thứ của làng Chợ Dầu nên khi phải rời làng đi tản cư, ông Hai vẫn còn rất quyến luyến cái nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình. Khi rời xa làng, ông vẫn luôn theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm tình hình những người ở nơi khác đến. Đặc biệt, với tình huống thứ hai sau khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, nhân vật ông Hai bộc lộ sâu sắc tình cảm của mình. Từng hành động, cử chỉ, lời nói của ông trong mỗi hoàn cảnh, thời gian, địa điểm là một sự tủi hổ, nhục nhã, xót xa, đau đớn, dằn vặt và cuối cùng đi đến quyết định vô cùng khó khăn “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Một người đã từng yêu làng hơn bất cứ thứ gì, đã từng tự hào về làng mà bây giờ lại phải thất vọng, đau khổ để quyết định “thù” làng. Tình huống này đã khiến người đọc cảm nhận sâu sắc tính cách, thái độ của nhân vật ông Hai. Nhưng Kim Lân không chỉ dừng lại đó mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ hơn khi tạo ra tình huống thứ ba là ông Hai nghe được tin cải chính. Một niềm vui bất ngờ, ông Hai như một con người đang chết mòn chết mỏi bây giờ được hồi sinh lại. Ông mua quà cho con và lại theo thói quen sang nhà bác Thứ để khoe tin mừng. Con người ấy vẫn mộc mạc, chân thực, đáng yêu và đáng quý biết bao. Tình huống đã khẳng định một điều trong con người ông Hai, tình yêu làng của ông Hai đã hoà quyện, thống nhất với tình yêu nước, tình yêu kháng chiến, yêu Cụ Hồ. Có thể nói, ở mỗi tình huống, nhân vật ông Hai đều bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, “rất người” của mình. Điều đó cũng khẳng định thành công trong việc xây dựng tình huống truyện của nhà văn Kim Lân.
Phải chăng, người đọc không chỉ thấy hấp dẫn với tác phẩm bởi tình huống truyện trong Làng mà còn thực sự thấy ấn tượng, yêu quý và hiểu rõ nhân vật hơn qua việc miêu tả nội tâm nhân vật của Kim Lân.
Thật vậy, Kim Lân đã miêu tả rất sâu sắc và cụ thể tâm trạng của nhân vật ông Hai qua mỗi tình huống. Trước khi nghe tin làng mình theo Tây, ông Hai yêu làng Chợ Dầu của ông hơn bất cứ thứ gì. Ông tự hào về tất cả những gì của làng. Những điều đó khiến cho nhân vật ông Hai hiện lên với những suy nghĩ khá hồn nhiên và tính cách cũng đặc biệt. Ông hay khoe làng: “Ông có thể ngồi nói cả buổi về cái làng Chợ Dầu mà không biết người nghe thế nào, chỉ nói cho sướng cái miệng”. Cho nên khi nhận lệnh phải đi tản cư, ông Hai nửa muốn đi vì kháng chiến, nửa muốn ở lại vì tình cảm quyến luyến, yêu làng, không muốn rời xa làng, nhưng cuối cùng ông cũng phải đi. Ở nơi tản cư, ông vẫn luôn theo dõi tin tức kháng chiến, tình yêu làng của ông thể hiện ở mọi lúc, mọi nơi dù ở làng hay đã rời xa làng. Song, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới thực sự được bộc lộ rõ khi nghe tin làng mình theo Tây. Một sự thất vọng tột độ, cái làng ông vốn rất tự hào, yêu hơn chính bản thân mình thì giờ đây lại theo Tây. Ông thấy mình như người có tội, bỗng chốc những cảm xúc tủi hổ, nhục nhã, dằn vặt, đau đớn ùa về trong ông. Những ngày sau ông không dám ra đường bởi ông sỢ, lo lắng và cảm thấy chẳng còn mặt mủi để nhìn ai. Một quyết định đau đớn mà ông Hai phải dằn lòng đưa ra: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, ông đã đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng, hi sinh cá nhân vì dân tộc. Nhưng ông vẫn muốn một lần nữa khẳng định sự trung thành với Đảng, với cách mạng của mình qua cuộc trò chuyện với đứa con thơ. Ông Hai đã thực sự có những suy nghĩ đúng đắn. Sau khi nghe tin làng cải chính, ông Hai lại được yêu làng, tự hào về làng đúng với tình yêu trong trái tim ông. Vì thế; ông tìm lại được bản tính hồn nhiên, mộc mạc của mình. Tình yêu làng của ông giờ đã hoà quyện, thống nhất với tình yêu nước, tình yêu kháng chiến.
Với thành công trong việc xây dựng tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật của ngòi bút Kim Lân, nhân vật ông Hai hiện lên với những phẩm chất cao đẹp, với tình yêu làng mộc mạc, giản dị mà sâu nặng. Hoà quyện với tình yêu đất nước, vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam có ý thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Nói cách khác, quê hương – Tổ quốc đối với mỗi người Việt Nam chúng ta luôn gắn bó trong niềm tự hào nồng thắm. Mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý ấy.
Tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân với những nét riêng, đặc sắc, đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc. Đặc biệt, với những thành công trong xây dựng tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật, Kim Lân đã đưa nhân vật ông Hai trở thành người nông dân điển hình sống mãi trong lòng người đọc.
Nội dung 3:
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu do có bờ biển dài. Tác động của biến đổi khí hậu đến Việt Nam là nguy cơ hiện hữu đối với mục tiêu xóa đói giảm nghèo, mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững. Dưới tác động của biến đổi khí hậu, chỉ trong 10 năm gần đây, các loại thiên tai như: bão, lũ, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán, xâm nhập mặn… đã gây thiệt hại đáng kể, làm chết và mất tích hàng ngàn người, thiệt hại về tài sản ước tính 1,5% GDP/năm. Với sự gia tăng đáng kể của các phương tiện giao thông và quá trình sản xuất gây ra hiện tượng ô nhiễm không khí, từ năm 2019 đến nay, tình trạng ô nhiễm khí xảy ra khá thường xuyên tại các thành phố lớn của nước ta.
Chất thải nhựa cũng trở thành một thách thức lớn với cộng đồng và xã hội. Việc tăng trưởng kinh tế và thay đổi hình thức tiêu thụ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng chất thải nhựa khiến ô nhiễm nhựa trở thành một vấn đề môi trường mang tính chất toàn cầu. Với đặc tính khó phân hủy trong tự nhiên, rác thải nhựa cùng với các chất gây ô nhiễm môi trường khác đã và đang tác động tiêu cực đến môi trường, kinh tế, xã hội và sức khỏe con người.
Hiện nay, cuộc sống đang phát triển ngày càng hiện đại, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, đối lập với nó là tình trạng ô nhiễm môi trường lại có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp. Bảo vệ môi trường hơn bao giờ hết đã trở thành nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Muốn giải quyết thành công bài toán ô nhiễm môi trường, phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững, trước hết cần bắt đầu bằng việc giáo dục, nâng cao ý thức, nhận thức về môi trường, bảo vệ môi trường cho mỗi người dân, cộng đồng ngay từ những lứa tuổi, cấp học nhỏ nhất