Wave

Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim.

Tài liệu hướng dẫn soạn bài theo chương trình mới giải sgk Văn 11 Chân Trời Sáng Tạo của Giaibaitapsgk sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng hoàn thành bài tập. Kèm theo đó là hướng dẫn giải vở bài tập Văn 11 tập 2, tập 1 giúp các em học sinh rút ngắn thời gian học tập.

Văn mẫu 11 chân trời sáng tạo đề bài: Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim.

Bài tham khảo 1:

“Tobe or not tobe” hay “Tồn tại hay không tồn tại” là một câu hỏi mà không có câu trả lời, mà nếu có thì cũng không thể thoả mãn được tất cả mọi người. Đó là nỗi trăn trở của chàng hoàng tử Hamlet trong vở kịch cùng tên – một vở bi kịch với những ý nghĩa tâm lí lịch sử sâu sắc nhất mà Shakespeare từng sáng tác. Vậy giờ chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sâu hơn về nội dung cũng như những giá trị mà nó mang lại, để tìm hiểu xem, điều gì đã khiến vở kịch về chàng hoàng tử xứ Đan Mạch trở lên đặc biệt.

Nhan đề đầy đủ là Bi kịch Hamlet, Hoàng tử Đan Mạch (Tragedy of Hamlet, Prince of Denmark), được Shakespeare viết vào khoảng 1601 và được công diễn vào 1602. Ban đầu, Shakespeare viết Hamlet theo thể melodrame (kịch tuồng), một hình thức sân khấu thịnh hành ở nước Anh thời ấy. Nhưng rồi qua nhiều lần trình diễn, ông sửa chữa dần thành kịch nói. Văn bản được in thành sách vào năm 1623 và được dùng cho đến ngày nay. Hamlet có cốt truyện phỏng theo câu chuyện cổ Đan Mạch. Truyện này được Saxo Grammaticus, một thầy tu Đan Mạch sống vào thế kỉ XII, ghi lại trong cuốn truyện lịch sử Đan Mạch. Tuy rằng kịch bản dựa trên câu chuyện đó nhưng  tư tưởng cũng như tính cách nhân vật của Shakespeare hoàn toàn khác với hai câu chuyện kia.
      Vở kịch mở ra bằng một thông điệp từ thế giới bên kia, khi hồn ma của người cha hiện về, báo cho Hamlet biết Claudius ( em trai và là người kế vị Vua sau khi ông qua đời, đồng thời cũng thành hôn luôn với chị dâu mình, Hoàng hậu Gertrude) chính là người đã giết ông để chiếm đoạt ngai vàng, và ông mong con trai mình sẽ thay mình trả thù đôi gian phu dâm phụ. Kể từ giây phút đó, lòng chàng luôn tràn ngập sự căm phẫn và chán ghét cuộc sống, suy nghĩ duy nhất của chàng chỉ là trả thù. Tuy nhiên, chàng vẫn đủ sáng suốt để đề phòng trường hợp đây là một linh hồn tà ác hiện lên để xúi giục chàng làm điều bậy, hòng kéo linh hồn của chàng xuống Địa Ngục, vì vậy, chàng giả điên, phần để thăm dò tin tức, phần để che mắt những kẻ được Claudius phái đi để theo dõi chàng. Tình hình trở lên căng thẳng hơn khi Hamlet mời một đoàn hát rong vào cung điện để diễn lại cảnh Claudius giết cha mình bằng cách rót thuốc độc vào tai, khiến cả vị vua và Hoàng hậu Gertrude đều thấp thỏm lo sợ, cầm chặt cây thánh giá mà cầu nguyện. Thời cơ đã đến, nhưng Hamlet không ra tay ngay lập tức, vì chàng cho rằng giết kẻ thù của mình khi hắn đang cầu nguyện thì linh hồn của hắn sẽ sạch tội ác và lên thiên đường, và như thế không tương xứng với cái chết mà cha chàng phải chịu. Biết được Hamlet đã biết rõ sự thật, Claudius cũng lập mưu trừ khử chàng bằng cách mượn tay vua Anh. Trước chuyến đi, Hoàng hậu Gertrude muốn nói chuyện riêng với Hamlet với ý đồ khêu gọi tình mẫu tử để biết rõ tâm tình của chàng hoàng tử. Cuộc nói chuyện đã không thành công và kết thúc bằng việc Hamlet vô tình đâm chết quan đại thần Polorius, thân phụ của Ophelia, người tình của Hamlet, vì tưởng nhầm rằng đó là Claudius đang theo dõi cuộc nói chuyện, việc này đã đêm đến hai bi kịch khác cho chàng đó là cái chết của Ophelia (do thất vọng trước sự điên loạn của tình nhân và bị sốc vì cái chết đầy bí ẩn của cha mình, nàng đã hoá điên, lang thang khắp lâu đài và cuối cùng nhảy xuống hào sâu mà chết) và mối thù máu với Laertes (con trai cả của Polorius). Quay lại với Hamlet, trên con thuyền sang Anh, Hamlet đã lời dụng sự sơ ý của Rosencrants và Guildenstern – hai tên tay sai được cử đi để hộ tống chàng sang Anh – đã tráo tờ mật lệnh yêu cầu vua Anh giết ngay Hamlet bằng một tờ chiếu khác yêu cầu giết hai tên tay sai đi cùng chàng. Mọi chuyện diễn ra theo đúng kế hoạch được định sẵn, tiếp sau đó là phân cảnh khó nhất cũng như là tạo điểm nổi bật nhất của cả vở diễn:
"To be, or not to be, that is the question:
Whether 'tis nobler in the mind to suffer
The slings and arrows of outrageous fortune,
Or to take arms against a sea of troubles
And by opposing end them. To die—to sleep,
No more; and by a sleep to say we end
The heart-ache and the thousand natural shocks
That flesh is heir to: 'tis a consummation
Devoutly to be wish'd. To die, to sleep;
To sleep, perchance to dream—ay, there's the rub:
For in that sleep of death what dreams may come,
When we have shuffled off this mortal coil,
Must give us pause"
    Đây là phân cảnh mà Hamlet cảm thấy nghi ngờ về mục đích sống, trăn trở về những điều chàng theo đuổi bấy lâu nay, chỉ những diễn viên lão luyện mới có thể đem đến cho khán giả những góc nhìn khác nhau về nhân vật chính, liệu chàng là một người con có hiếu, đại diện cho công lí ánh sáng để diệt trừ những thứ tà ác, vì quyền lực mà có thể giết chết anh ruột của mình, hay chàng cũng chỉ là một kẻ ngu muội, lấy danh nghĩa trả thù mà làm điều xằng bậy? Trong mĩ học của chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn phổ biến thuyết “lỗi lầm bi kịch”. Quan điểm này cho rằng: “Nhân vật bi kịch có nhiều nhược điểm trong tính cách nên dẫn đến hậu quả bi thảm”. Theo Aristote, ông không đòi hỏi nhân vật bi kịch phải là những con người hoàn hảo và ngược lại. Với ông, nhân vật bi kịch tức là những nhân vật mà “bất hạnh của họ gây nên những thảm họa trong bi kịch”. Họ không hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu. Ông chống lại lối thể hiện họ là những con người tốt tuyệt vời vì sự trừng phạt một người quá tốt phải chịu sẽ gây cho người xem sự căm phẫn hơn là thương xót. Và chống lại lối thể hiện họ hoàn toàn ác, bởi lẽ không ai lại thương xót kẻ đê tiện. Như vậy về phía phẩm chất tinh thần họ phải là những người trung bình. Nói cách khác họ có đức hạnh nhưng có những điểm yếu và những bất hạnh phải giáng xuống đầu họ do một sai lầm nào đó có khả năng gợi nên sự thương xót chứ không phải là căm ghét đối với họ. Và với những mâu thuẫn và xung đột trong tâm lí nhân vật, Hamlet tiến tới hồi kết của vở kịch.
     Sau chuyến hành trình dài, Hamlet trở về Đan Mạch. Thấy kế hoạch của mình đã đổ bể, vua Claudius lợi dụng mối thù của Laertes để dựng lên một vở kịch với kết thúc là cái chết của nhân vật chính, để mà hoàng hậu cũng không biết, thân dân cũng không hay, và cuộc đấu kiếm giữa Hamlet và Laertes diễn ra. Hắn chuẩn bị cho Laertes một thanh kiếm tẩm thuốc độc, lo xa hơn, hắn còn cho thuốc độc vào rượu mừng cho người thắng cuộc phòng Laertes thất bại. Nhưng nhà vua không lường trước được tương lại, khi Hamlet thắng điểm, Hoàng hậu lại là người uống cốc rượu để mừng con. Đến hiệp tiếp theo, Laertes đâm Hamlet bị thương, đổi kiếm, Laertes lại bị Hamlet đâm trúng. Hoàng hậu lúc này đã ngấm rượu độc và chết ngay bên cạnh nhà vua, trước sự sửng sốt của toàn triều đình. Laertes biết mình sắp chết nên hối hận nói ra toàn bộ sự thật rằng: Claudius là kẻ chủ mưu và Hamlet cũng sẽ chết vì chất độc trong thanh kiếm. Căm phẫn tột độ, Hamlet dùng mũi gươm tẩm độc kết liệu nhà vua. Kết thúc vở kịch là Fortinbras, sau khi chinh phục Ba Lan trở về, lên ngôi vua trị vì đất nước Đan Mạch trong tiếng đại bác và tiếng nhạc tiến linh hồn Hamlet về nơi an nghỉ…
     Và sau tất cả, sự trả thù đó đã để lại những gì? Một triều đại Đan Mạch tan hoang, giờ đây thuộc về kẻ khác, cùng sự khủng khiếp của những gì đã diễn ra, được gói gọn lại một cách không thể ghê sợ hơn trong lời nói của Horatio - người thân cận của Hoàng tử Hamlet - ở những dòng cuối cùng của vở kịch:
“And let me speak to th' yet-unknowing world
How these things came about. So shall you hear
Of carnal, bloody, and unnatural acts,
Of accidental judgments, casual slaughters,
Of deaths put on by cunning and forced cause,
And, in this upshot, purposes mistook
Fall'n on th' inventors' heads. All this can I
Truly deliver.”
     Với Hamlet, tác phẩm phản ánh được tinh thần của thời đại với sự khủng hoảng, bế tắc của lý tưởng nhân văn chủ nghĩa. Không mang không khí lãng mạn vui tươi và lý tưởng lạc quan tốt đẹp của những vở kịch vui, bi kịch của Shakespeare mang suy tư nặng nề về các mối xung đột, mà trước hết là xung đột giữa lý tưởng nhân văn và hiện thực xấu xa của xã hội được ông thể hiện rất cụ thể trong mâu thuẫn của từng nhân vật trong vở kịch. Chúng ta có Hamlet và vua Claudius, một bên là kẻ muốn trả nợ máu một bên là kẻ sát nhân, một bên là con người có sức mạnh bất diệt, là người vươn lên trong chính sự đau khổ mà thể hiện được nét đẹp phẩm chất cao quý, luôn có khát vọng vươn tới đạo đức sáng ngời cao cả và một bên là một tên vô lại, ăn chơi trác táng, sẵn sàng giết anh trai vì mục tiêu lợi lộc. Việc phân tích nhân vật Hamlet đã cho chúng ta nhìn nhận được thực tế trong con mắt của Hamlet, để rồi từ đó thấy rằng trong tâm hồn chàng toàn những đớn đau, bi quan mà đầy trăn trở, cong phân tích Claudius ta chỉ thấy một xã hội được Shakespeare khắc hoạ như một thời kì phong kiến đen tối với các thế lực đua nhau để tranh quyền đoạt vị, giai cấp tư sản mới nhu nhược, vì thế mà đời sống nhân dân cùng cực.
     Như vậy, qua việc thể hiện nghệ thuật điển hình hoá trong cách xây dựng và thể hiện tính cách nhân vật, chúng ta thấy được bộ mặt xã hội mà kịch của Shakespeare phản ánh. Đó là một xã hội không mấy tốt đẹp, ham quyền, đoạt lợi, ham danh vọng để chà đạp lên con người. Tình nghĩa cha con, tình vợ chồng, tình nghĩa ruột thịt đã tan biến để nhường chổ cho những tham vọng mới. Đây được xem là một đóng góp sáng tạo của Shakespeare cho bi kịch của thế giới.    

Bài tham khảo 2:

So với Italia và một số nước Tây Âu khác, nước Anh bước vào thời đại Phục hưng muộn màng hơn. Cũng như các nước Tây Âu khác, nước Anh cũng đi theo xu thế tiến lên chủ nghĩa tư bản. Phong trào Phục hưng ngay từ khi ra đời đã gặt hái được những mùa hoa trái tốt đẹp, phong phú vô cùng. Nó làm cho Tây Âu nói chung và nước Anh nói riêng như bừng dậy sau một “đêm trường trung cổ”, tiến nhanh và mạnh vào thời kì lịch sử cận đại. Trong bối cảnh lịch sử ấy, đã tạo một điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển của văn học phục hưng Anh. Với một diện mạo và một dáng vẻ riêng, văn học phục hưng Anh đã có những thành tựu hết sức đáng kể. Đặc điểm nổi bậc nhất của văn học này là sự phát triển rầm rộ và rực rỡ của thể loại Kịch với nhiều tác gia tiêu biểu xuất sắc nhất trong thể loại này.
Nổi bật lên là Sêcxpia,nhà soạn kịch thiên tài, người đại diện tiêu biểu nhất cho văn đàn nước Anh thời Phục hưng. Bi kịch được đánh giá là tầm cao của thiên tài Sêcxpia. Sêcxpia được coi là một trong những đại văn hào vĩ đại nhất của nhân loại, một “linh hồn của thời đại, kì tài của sân khấu”, một “thiên tài lớn nhất trong những người sáng tạo, là nhà thơ tuyệt diệu nhất, là con người kì diệu, là con người vĩ đại, con người không ai có thể sánh nổi” (Bêlinxki).
Từ lâu, các sáng tác của Sêcxpia đã vượt ra ngoài phạm vi của một nước và đã trở thành tài sản chung của toàn nhân loại. Nó đã trở thành một gia tài quý báu nhất mà “nghệ thuật bi kịch” trong quá khứ để lại cho chúng ta tiếp thu và học tập. “Sêcxpia không chỉ thuộc về thời đại của mình mà còn thuộc về tất cả mọi thời đại”. Với tài năng thiên bẩm, cùng với sự tiếp nhận tinh thần của chủ nghĩa nhân văn cao cả của thời Phục hưng, Sêcxpia đã sáng tạo nên những kiệt tác bi kịch nổi tiếng. Một trong số đó, tiêu biểu là vở “Hamlet” – một tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp kịch Sêxpia. Một kiệt tác trường tồn với thời gian, suốt mấy trăm năm qua nó vẫn sống động trên sân khấu.
Đây là một tác phẩm kì tài của Sêcxpia, với tác phẩm này nó đã đưa Sêcxpia lên tầng cao mới. Với nội dung, tư tưởng đầy tính nhân văn, vở kịch này đã thu hút biết bao thế hệ độc giả trên những trang viết, cũng như trên sân khấu. Điều làm nên thành công ấy, chính ở tài năng của tác giả với một phong cách viết rất nghệ thuật, rất riêng. Đó chính là nghệ thuật – nghệ thuật bi kịch rất Sêcxpia.
Với ước muốn và vì những lẽ trên, chúng tôi tìm đến đề tài: Nghệ thuật bi kịch của Sêcxpia qua bi kịch Hamlet làm đề tài nghiên cứu của mình. Việc nghiên cứu đề tài này giúp cho người viết có những nhìn nhận thật đúng đắn và hiểu rõ hơn nghệ thuật bi kịch của tác gia tầm vóc này. Và đồng thời, đây cũng là cơ sở cho công tác nghiên cứu giảng dạy và học tập về sau này của người viết.

Lịch sử của việc nghiên cứu về Sêcxpia nói chung, và về “nghệ thuật bi kịch” của Sêcxpia nói riêng trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu cơ bản trên nhiều phương diện như: sưu tầm, dịch thuật, biên soạn… cho đến các công trình nghiên cứu, các bài viết, các bài lý luận, phê bình nó cũng xuất hiện ngày càng nhiều hơn. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều hết sức công phu và có một giá trị không nhỏ, giúp cho người đọc hiểu sâu sắc hơn về “nghệ thuật bi kịch” của Sêcxpia.
Ở Anh, Pháp, Đức, Nga và nhiều nước khác. Sêcxpia được những nhà tiến bộ nhiệt liệt ca ngợi và học tập nghiên cứu. Mac, Ăngghen, những lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản toàn thế giới, đánh giá rất cao thiên tài Sêcxpia. Nhiều nhà văn thế giới đã thừa nhận uy tín và ảnh hưởng lớn lao của ông. Ben Jônxơn, nhà viết kịch nổi tiếng đã khẳng định: “Sêcxpia không chỉ thuộc về nước Anh, mà ông thuộc mọi thời đại”. Gớt, Sile, Huygô, Banzăc, Gorki, Bêlinxki…và bao nhiêu nhà văn lớn khác nữa đều thừa nhận thiên tài của Sêcxpia. Nhiều đạo diễn và diễn viên ưu tú trong gần bốn trăm năm qua đã nổi tiếng nhờ dàn dựng và diễn xuất các vở kịch của Sêcxpia. Thế kỷ XX với sự phát triển mạnh mẽ của màn ảnh lớn và nhỏ đã đưa Sêcxpia đến với mọi nơi trên hành tinh này. Giới nghiên cứu, lí luận, phê bình cũng dành nhiều giấy bút để tìm hiểu, để phân tích, để lí giải về con người, về tác phẩm của nhà soạn kịch ưu tú đó.
Riêng trong mười năm đầu thế kỷ XX, người ta đã viết về ông nhiều hơn là cả ba thế kỷ trước cộng lại. "Sêcxpia cần thiết cho thời đại chúng ta, tác phẩm của ông làm những con người thế kỷ XX vui sướng, say sưa, cảm động và thúc đẩy họ suy nghĩ... Nó đã vào trong đời sống chúng ta làm thành một yếu tố quan trọng của đời sống văn hoá hiện đại" (Anixt).
Riêng ở Việt Nam, ngay từ trước Cách mạng tháng Tám 1945 giới trí thức, sinh viên, học sinh cũng đã từng say mê thưởng thức Sêcxpia qua tiếng Anh hoặc qua các bản dịch tiếng Pháp. Vài vở kịch của ông cũng đã được dịch ra tiếng Việt. Tuy nhiên phải đợi đến sau ngày hoà bình lập lại, ở miền Bắc mới xuất hiện một số công trình giới thiệu, nghiên cứu, dịch thuật đáng kể; các trường phổ thông trung học và Đại học (văn) mới bắt đầu giảng dạy một vài tác phẩm của Sêcxpia; các trường nghệ thuật sân khấu cũng bắt tay vào việc học tập Sêcxpia, dàn dựng một vài vở của ông. Ngày nay ở nước ta việc giới thiệu, nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy Sêcxpia ngày càng phong phú và đã có không ít những công trình. Tiêu biểu:
Trong cuốn Lịch sử sân khấu thế giới (1977) do Đức Nam, Hoàng Oanh, Hải Dương (dịch), Nxb Văn hóa, Hà Nội, khi nhận định về các sáng tác của Sêcxpia cho rằng : “Kịch của ông là cái hồi quang nghệ thuật đầy đủ nhất của đời sống xã hội thời Phục hưng. Sêcxpia đã nhìn thấu vào tận bản chất của các quan hệ xã hội. với cái nhạy bén của một thiên tài chân chính, trước đó người khác không nhìn ra, phát hiện ra mâu thuẫn ngay trong mầm mống của những sự kiện này, sự kiện khác thuộc đời sống xã hội”.
Các tác giả cũng thấy rằng : “Trong những tác phẩm của mình, Sêcxpia đã phản ánh những mâu thuẫn của xã hội này, lúc bấy giờ mới nảy sinh và chỉ lộ ra một cách trọn vẹn trong thời kì sau. Ông không chỉ nhìn thấy quá khứ và hiện tại mà còn nhìn thấu tương lai bằng con mắt tiên tri”.
Khi đánh giá về giá trị nghệ thuật trong các sáng tác của Sêcxpia, họ nhận thấy : “Nghệ thuật của ông không những phản ánh hiện thực, mà còn thể hiện một thái độ nhất định đối với hiện thực. Sêcxpia là một nhà nhân bản và bằng những tác phẩm của mình tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa phong kiến với tất cả những hậu quả của nó trong đời sống tinh thần và xã hội”.
Minh Chính trong cuốn Văn học phương Tây giản yếu, Nxb ĐHQG TP.HCM, năm 2002 cũng cho ra mắt bạn đọc công trình nghiên cứu công phu về nền văn học của phương Tây nói chung và văn học Anh nói riêng. Sức mạnh tinh thần ở đây có chứa đựng trong nó biết bao ước mơ, khát vọng của con người, mà chính yếu tố “nghệ thuật bi kịch” đã góp phần không nhỏ để thể hiện thành công nhất về nó.
Trong cuốn Văn học phương Tây do tập thể các tác giả: Đặng Anh Đào, Hoàng Nhân, Lương Duy Trung, Nguyễn Đức Nam, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Văn Chính biên soạn, Nxb Giáo dục, năm 2004, cho ra mắt bạn đọc. Công trình này là nguồn tư liệu hết sức quý giá cho các nhà nghiên cứu khi đưa ra nhận định về nội dung, tư tưởng nghệ thuật cũng như những đóng góp to lớn của Sêcxpia với văn học thời Phục hưng ở Anh nói riêng và với kho tàng văn học phong phú của toàn thế giới nói chung.
Về nghệ thuật xây dựng các bi kịch kiệt tác của Sêcxpia, các tác giả nhận xét : “Sêcxpia có biệt tài trong việc chuyển một câu chuyện cũ thành kịch. Muốn làm công việc đó thì trước hết phải quan tâm đến việc tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch. Ở kịch lịch sử hoặc hài kịch, ông cũng đã làm tốt việc ấy. Tuy nhiên đến bi kịch thì tài năng này cành phát huy hết sức mạnh ngòi bút của ông”.
Lưu Đức Trung (chủ biên) trong cuốn “Chân dung các nhà văn thế giới”, Nxb Giáo dục, năm 2004, đã giới thiệu đến đông đảo độc giả một nguồn tư liệu hết sức có giá trị. Các tác giả đã trình bày khá đầy đủ và công phu về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác cũng như những đóng góp của những tác giả nổi tiếng trên thế giới, đặc biệt không thể không nhắc đến Sêcxpia và những kiệt tác của thiên tài này, trong đó có các vở bi kịch Rômêô và Juliet, Hamlet và Ôtelô...
Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác, do khuôn khổ của tiểu luận nên chúng tôi chỉ đưa ra một số công trình cụ thể, chớ không đi sâu hết được. Trên cơ sở kế thừa và cộng với sự kết hợp một số nguồn tham khảo khác chúng tôi mạnh dạn đi vào việc nghiên cứu của mình. 

Hamlet là vở bi kịch của nhà văn, nhà soạn kịch vĩ đại người Anh William Shakespeare (1564-1616), có lẽ được sáng tác vào năm 1601. Vở kịch gồm 5 hồi , cốt truyện của tác phẩm có nguồn gốc từ thể loại Saga (truyện dân gian) thời đại Trung cổ.
Hamlet mở đầu giai đoạn sáng tác bi kịch của Sêcxpia, là vở kịch có ý nghĩa tâm lý xã hội sâu sắc nhất trong các vở kịch của ông. Ông xây dựng tác phẩm này vào thời kỳ đã từng trải nhiều về cuộc sống, sau hai mươi lăm năm bôn ba chìm nổi trong xã hội nước Âu thời bấy giờ. Đó cũng là thời kỳ mà tích luỹ sơ khai của tư bản Anh đang đẻ ra những mâu thuẫn xã hội gay gắt chưa từng thấy, sự cướp đoạt làm giàu của giai cấp tư sản cấu kết với phong kiến đang bần cùng hóa quảng đại nhân dân, đồng tiền vạn năng và cường quyền chà đạp lên công lý, bao nhiêu quan niệm nhân đạo làm giá trị tinh thần của thời đại Phục hưng đổ vỡ trên nền móng thối nát của xã hội tư bản đang thành hình… Con người lý tưởng của thời đại Phục hưng, mà trước đây Sêcxpia đã biểu hiện trong các vở hài kịch của ông, cũng đã bị tan vỡ theo.
Hamlet là một trong những bi kịch nổi tiếng nhất của lịch sử sân khấu thế giới. Trong một hình thức nghệ thuật kịch – thơ trữ tình tuyệt vời, tác phẩm phản ánh được tinh thần của thời đại với sự khủng hoảng, bế tắc của lý tưởng nhân văn chủ nghĩa. Tác phẩm đã được nhiều nhà thơ, văn… đánh giá rất cao và không ngớt lời ca ngợi. Suốt mấy trăm năm qua Hamlet vẫn sống động trên sân khấu với nhiều cách dàn dựng khác nhau. Nhiều đạo diễn, diễn viên nhờ vậy mà nổi tiếng. nhiều bộ phim cho màn ảnh lớn cũng như màn ảnh nhỏ đã được quay và phổ biến rộng khắp thế giới. Các nhà nghiên cứu, lí luận phê bình, giáo sư, đại học… không ngừng đào sâu vào vở kịch để khám phá, phát hiện những gì ẩn dấu trong đó.
Cốt truyện Hamlet xoay quanh nhân vật trung tâm là Hamlet, hoàng tử nước Đan Mạch, sinh viên trường Đại học Wittenberg (Đức). Chàng gặp một cảnh ngộ éo le trong gia đình: vua cha vừa chết được hai tháng thì mẹ chàng, Hoàng hậu Gertrude tái giá lấy Claudius, chú ruột của chàng. Hồn ma của vua cha hiện về báo cho chàng biết Claudius là kẻ đã giết mình để chiếm đoạt ngai vàng và Hoàng hậu, và đòi Hamlet phải trả thù. Hamlet từ đó lòng tràn đầy căm phẫn, ghê tởm và chán ghét cuộc đời. Chàng giả điên để che mắt kẻ thù, thực hiện nghĩa vụ. Còn kẻ thù của Hamlet cũng ra sức theo dõi, dò xét chàng. Tình hình trở nên căng thẳng hơn khi Hamlet cho mời một đoàn kịch vào hoàng cung diễn một vở kịch. Xem đến kịch cảnh một đôi gian phu dâm phụ mưu sát nhà vua, Claudius hoảng hốt bỏ về rồi vào phòng riêng cầu nguyện. Hamlet theo sát và đứng ngay sau y. Thời cơ rất thuận lợi để chàng trả thù, nhưng chàng lại không hành động. Chàng cho rằng giết hắn trong lúc hắn đang cầu nguyện để linh hồn hắn sạch tội ác, lên thiên đàng thì không thể gọi là trả thù được và như thế không tương xứng với cái chết mà cha chàng đã chịu. Claudius lập mưu trừ khử Hamlet, hắn cho hai tên tay sai Rosencrantz và Guildenstern hộ tống Hamlet sang Anh, thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt. Trước khi Hamlet lên đường, mẹ chàng cho gọi chàng vào để nói chuyện, với ý đồ lợi dụng tình cảm mẹ con để khêu gợi Hamlet nói thật tâm trạng của mình. Quan đại thần Polonius, thân phụ của Ophelia, người yêu của Hamlet nấp sẵn sau bức rèm, có nhiệm vụ theo dõi cuộc nói chuyện đó. Nhưng Hamlet luôn đề phòng và khi phát hiện bức rèm động đậy, chàng rút gươm đâm. Tiếc thay không phải là nhà vua Claudius như chàng tưởng mà là bố người yêu của mình. Trên đường sang Anh, lợi dụng lúc hai tên tay sai của nhà vua sơ ý, Hamlet xem trộm tờ chiếu chỉ, đó là mật lệnh giao cho vua Anh phải giết ngay Hamlet. Hamlet bèn viết thay một chiếu chỉ khác, đề nghị vua Anh giết Rosencrantz và Guildenstern. Chàng trở về Đan Mạch tâu với vua là chàng bị bọn cướp biển bắt, rồi được chúng tha. Ophelia phần vì thất vọng với sự điên loạn của người yêu là Hamlet, phần quá đỗi đau thương trước cái chết bí ẩn của cha nên bị mất trí, lang thang và cuối cùng chết đuối. Laertes phẫn nộ trước cái chết của cha (Polonius) và được nhà vua nói cho biết Hamlet là thủ phạm, đồng thời bày ra kế hoạch để Laertes có thể trả thù được một cách êm thấm khiến Hoàng hậu không biết mà thần dân cũng không hay: tổ chức một cuộc đấu kiếm giữa Laertes và Hamlet, mũi kiếm của Laertes tẩm thuốc độc và không bịt đầu. Cẩn thận hơn, nhà vua còn chuẩn bị sẵn một cốc rượu độc để mời Hamlet uống. Hamlet không lường trước được âm mưu thâm độc của kẻ thù. Song, ngoài ý muốn của Claudius, khi Hamlet thắng điểm, Hoàng hậu lại là người uống cốc rượu để mừng con. Đến hiệp ba, Laertes đâm Hamlet bị thương. Đổi kiếm, Laertes lại bị Hamlet đâm trúng. Hoàng hậu ngấm rượu độc chết khiến cả triều đình sửng sốt. Laertes biết mình cũng sắp chết nên hối hận nói rõ sự thật: nhà vua Claudius là thủ phạm của âm mưu và Hamlet sẽ không thể thoát chết do đã bị trúng độc. Căm phẫn tột độ, Hamlet đã dùng mũi kiếm tẩm độc kết liễu nhà vua. Vở bi kịch kết thúc với việc Fortinbras, sau khi chinh phục được Ba Lan trở về, lên ngôi vua trị vì vương quốc Đan Mạch trong tiếng đại bác, tiếng quân nhạc tiễn đưa linh hồn Hamlet về nơi yên nghỉ.

Bài tham khảo 3:

Cũng như nhiều vở kịch khác, kịch bản Hamlet cũng dựa theo tích cũ và các văn bản kịch được lưu hành trước đó. Trước hết, Hamlet có cốt truyện phỏng theo câu chuyện cổ Đan Mạch. Truyện này được Saxo Grammaticus, một thầy tu Đan Mạch sống vào thế kỉ XII, ghi lại trong cuốc Truyện lịch sử Đan Mạch. Nội dung chính như sau: Horwendil và feng là hai an hem sinh trưởng ở xứ Jơtlan. Horwendil tài hoa, đánh thắng vua Na Uy trong cuộc đấu tay đôi và làm rể vua Đan Mạch. Horwendil lên ngôi vua sau khi vua Đan Mạch qua đời. Vì ghen ghét anh, Feng lập mưu giết anh, lên nối ngôi và lấy chị dâu. Con trai của Horwendil là Amleth giả điên để tìm cách trốn tránh và báo thù. Feng không tin, cho người nấp sau rèm rình nghe cuộc nói chuyện giữa Amleth và Hoàng hậu, Amleth phát hiện và giết chết kẻ đó. Feng phái Amleth sang Anh với bức thư yêu cầu vua Anh giết chết Amleth. Amleth đánh tráo thư, yêu cầu vua Anh chém hai kẻ tháp tùng và gả công chúa cho Amleth. Một năm sau, Amleth từ biệt vợ, trở về giết chết Feng và lên ngôi vua.
Câu chuyện có nội dung gần như giống hệt với Hamlet nhưng chủ đề thì lại không giống. Đây chỉ là sự trả thù đẫm máu mang tính gia đình, chứ không có tính bi kịch.
Năm 1570, nhà văn Pháp Francois De Belleforest đã viết lại câu chuyện này, đưa vào bộ Những truyện bi thảm, tập V. Ông khai thác khía cạnh vô đạo đức của Feng bằng cách Feng yêu chị dâu trước rồi mới giết anh đoạt vợ. Vậy nên về cơ bản, chủ đề câu chuyện vẫn như cũ.
Khoảng cuối thế kỉ XVI, các nhà soạn kịch đã đưa Amleth lên sân khấu. Thomas Kit được xem là soạn giả đầu tiên của Hamlet. Công lao của Kit là sáng tạo nên nhân vật hồn ma vua cha Hamlet và để Hamlet chết chứ không phải giành thắng lợi như trong truyện cỏ. Tuy nhiên chủ đề Hamlet của Kit cũng chỉ giới hạn trong phạm vi của một bi kịch báo thù gia đình chứ chưa đạt đến tầm bi kịch xã hội như Hamlet của Sêcxpia khi ông đưa thêm vào cốt truyện những người phu đào huyệt, Fortinbras và cái chết của Ôphêlia..
Để làm điều đó, Sêcxpia đã mở rộng, khai thác sâu hơn bối cảnh lịch sử và xây dựng Hamlet thành mẫu người lí tưởng của thời đại, Hamlet hội đủ mọi tố chất của một con người phục hưng. Chàng là một hoàng tử thông tuệ, Ôphêlia ca ngợi “một tâm hồn cao quý (…) đôi mắt của nhà thông thái, thanh gươm của trang hiệp sĩ; miện lưỡi của người hào hoa, niềm hi vọng, đóa hồng tươi của quốc gia gấm vóc, gương sáng của thời trang, kiểu mẫu của mọi người” [tr.96]. Ngoài ra, Hamlet còn là một đạo diễn tài ba, một trí thức am hiểu sâu sắc nhiều phương diện cuộc sống… Sêcxpia trao cho chàng hai nhiệm vụ: báo thù cha và xây dựng thời đại. Hamlet với trách nhiệm, bổn phận hoàng tử của mình – người sẽ gánh vác vai trò đúng đầu nhà nước – lại thiên về nghĩa vụ dựng xây. Việc kết hợp hai chủ đề này trong tác phẩm đã khiến mỗi lời nói, hành đọng của hình tượng trung tâm Hamlet thêm phần đa dạng. Người đọc, người nghiên cứu có thể khai thác ý nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Như vậy, khi viết tác phẩm này Sêcxpia đã kế thừa những người đi trước một phần đáng kể cho cốt truyện và những tình tiết cơ bản. Nhưng chỉ có ông thì chuyện Amleth mới trở thành bi kịch Hamlet với tất cả giá trị có thể bất chấp thời gian, không gian tường tồn như một kì quan nghệ thuật.
Cống hiến to lớn của Sêcxpia là đã cải biến câu chuyện trả thù mang tính chất riêng tư của người xưa thành một vở kịch phản ánh sâu sắc những đặc trưng của thời đại ông, nói lên được những nỗi băn khoăn trăn trở về lẽ sống, về ước vọng của người thời đại ấy một cách vô cùng thống thiết. Đó là một tác phẩm kết hợp tuyệt vời giữa thi ca và triết học, giữa nghệ thuật và tư tưởng, giữa sân khấu và cuộc đời.

Một phhơng diện rất đặc sắc khác của nghệ thuật bi kich của Sêcxpia là nghệ thuật tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch. Sêcxpia có biệt tài trong việc chuyển một câu chuyện cũ thành kịch. Muốn làm được công việc này thì phải quan tâm trước hết đến việc tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch. Ở kịch lịch sử hoặc ở hài kịch, ông cũng đã làm tốt công việc này. Tuy nhiên, đến thể loại bi kịch thì tài năng này càng phát huy hết sức mạnh của ngòi bút ông.
Hãy xem ông đặt nhân vật của mình vào tình huống bi kịch và dẫn dắt chúng qua các tình huống đầy mâu thuẫn, để chúng đối đầu với các tình huống ấy và đối địch với nhau; chẳng những thế mà còn để chúng bộc bộ những mâu thuẫn bên trong của chúng…thì mới thấy hết công phu tạo dựng nên kịch của ông. Tình huống trước làm nảy sinh xung đột, những xung đột này làm nảy sinh mâu thuẫn mới xô đẩy nhân vật vào trong tình huống mới…Cứ thế lớp mâu thuẫn trước gọi lớp mâu thuẫn tiếp theo vì vậy mà trong các hành động của Sêchxpia diễn ra như một chuổi mâu thuẫn và xung đột căng thẳng, khẩn trương, cuồn cuộn như con gió lốc.
Hành động kịch của Sêchxpia là duy nhất nhưng không phải là đơn nhất. Bên cạnh hành động chính, ông thường đưa thêm hành động phụ nhằm mở rộng và khoét sâu thêm mâu thuẫn, khiến cho tấn bi kịch mà ông trình bày càng mở rộng thêm về kích thước, quy mô, càng gay gắt thêm tính chất, mức độ.
Trong tác phẩm Hamlet, Hamlet hiện lên như là một biểu tượng đẹp của con người Phục hưng. Là hoàng tử nhưng Hamlet vẫn say mê học tập, rèn luyện để trở thành người có ích cho đất nươc. Tâm hồn chàng đầy lạc quan, tin tưởng ở con người –“Kì diệu thay là con người ! Con người cao quý làm sao về mặt lí trí, vô tận làm sao về mặt năng khiếu! Hình dung và dáng điệu mới giàu ý nghĩa và đánh kính làm sao! Trong hành động như thần tiên, về trí tuệ ngang tài thượng đế! Thật là vẻ dẹp thế gian, kiểu mẫu của muôn loài” [tr75]. Nhưng sau cái chết của cha và sau khi biết rõ nguyên nhân, Hamlet cay đắng: “đàn ông không làm cho tôi vui được, không đàn bà cũng vậy nữa”. Chàng nhiếc móc cuộc đời: “trời hỡi trời ! Bao nhiêu lạc thú trên đời này đối với ta sao chán chường, nhạt nhẽo và vô vị đến thế. Bẩn thỉu thay là đời. Ôi! Bẩn, bẩn! Chỉ là một cái vườn hoang mọc lên từ hạt giống độc, đầy rẫy những cây cỏ thối tha” [tr28].
Từ niềm tin, chàng chuyển sang hoài nghi, hoài nghi hết thảy. Thực tế cuộc sống tráo trở càng mài sắc thêm nỗi đau khổ của chàng. Chú ruột là thủ phạm giết cha, mẹ thì phản bội chồng và rơi vào chăn gối loạn luân, người yêu thì cam tâm làm kẻ do thám, bạn bè bội phản, quần thần thì toa rập theo cái xấu… Hamlet hoài nghi. Hoài nghi ở Hamlet gắn với sự nhẫn nhịn để cân nhắc, tìm ra giải pháp tối ưu, “lòng ta ơi, hãy cố nén lại” [tr48]. Hamlet hoài nghi để hành động. Từ hoài nghi đến do dự.
Chỉ còn lại một mình khi cha mất, mẹ đứng về phía khác. Cơn cùng quẫn khiến cho chàng: “Ôi thịt da rắn chắc, quá rắn chắc này hãy chảy ra đi, tan biến đi; biến thành giọt sương! Mong sao đáng bất diệt kia đừng trừng phạt kẻ tự hủy hoại mình [tr.28]. Nhưng rồi hồn vua cha giục chàng hay đứng lên đi báo thù. Nhưng chàng lại cô đơn, một mình. Chỉ mình chàng đương đầu tất cả. Chàng phải làm sao đây. Dũng cảm quyết tử hay một phen ngồi ngắn thở dài.
Và rồi cái dũng mãnh đã thắng thế, sức mạnh của Hamlet tăng lên bội phần khi có trí tuệ soi đường: “thật là nguy hiểm cho những kẻ yếu hèn đứng xen vào giữa hai mũi gươm nóng rực của hai kẻ thù dũng mãnh” [tr.182]. Hamlet quyết ra tay giết Clôđiut báo thù, nhưng rồi khi định hành động, chàng lại lưỡng lự. Cứ thế càng lưỡng lữ thì chàng càng thấy mình bất lực hơn. Và rồi để kẻ thù hoài nghi và ra tay hại lại chàng…
Tóm lại, bằng nghệ thuật tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch đã khiến cho vở kịch Hamlet trở nên cuốn hút, li kì, tạo nên nhiều những sự kịch tính trong tâm khảm nhân vật Hamlet và trong cả toàn bộ vở kịch. Chính nghệ thuật này mà Sêcxpia đã dẫn dắt người đọc đi đến hết sự kiện này đến những sự kiện khác, đến những mâu thuẫn, những sự quy tụ của vô khối xung đột trong tác phẩm, xung đột cá nhân, đến gia đình, đến xã hội, xung đột giữa bên trong và bên ngoài tâm lý…

Bài tham khảo 4: 

Những chiếc máy quay full HD, 4K hẳn là thứ mà nhiều người làm phim trong quá khứ cực kỳ thèm khát. Màu sắc sặc sỡ trên phim hẳn là điều mong mỏi của hàng triệu khán giả mê điện ảnh khi xưa. Và âm thanh, những cuộc hội thoại hẳn là một tiến bộ vĩ đại trong công cuộc đưa điện ảnh ngày càng phát triển, ngày càng gần gũi với cuộc sống thực. Thế nhưng, “The Artist” mặc dù được sản xuất năm 2011, lại đơn phương độc mã đi theo một con đường hoàn toàn khác, đưa dòng phim câm, trắng đen một lần nữa lên màn ảnh rộng và đưa tên mình vào danh sách những bộ phim dành giải Oscars ở 5 hạng mục danh giá, trong đó có Phim xuất sắc, Đạo diễn xuất sắc và Nam diễn viên chính xuất sắc nhất.

“The Artist” là câu chuyện về George Valentin – một chàng diễn viên điển trai, giàu có và tài năng, đang đứng trên đỉnh cao danh vọng của thể loại phim câm. Thế rồi, bi kịch đời anh ập đến khi thời thế thay đổi, công nghệ mới lên ngôi, người ta đưa được âm thanh, tiếng động vào từng thước phim. Và anh với những thước phim im lặng của anh trở thành thừa thãi, bị lãng quên vào quá khứ. George từ đỉnh cao, nay đã xuống tận đáy của cuộc đời. Anh mất tất cả: nhà cửa, tài sản, quần áo và người vợ với cuộc hôn nhân không hạnh phúc đã lâu. Anh chỉ còn lại những cuộn phim từng kiếm cho anh bộn tiền, chú chó Uggie và người tài xế trung thành. George cũng mất cả lòng kiêu hãnh của một người đàn ông khi cô vũ công anh từng phải lòng và giúp đỡ, nay lại trở thành một minh tinh của dòng phim nói. Cô đã vô tình xúc phạm anh và thể loại phim câm cũ kỹ mà anh đại diện. Phim là chuyện đời, chuyện nghề và chuyện tình của những người nghệ sỹ chân chính.

Phim Oscars hiếm có phim nào mang nhiều yếu tố giải trí, hài hước hay dễ xem. Thế nhưng đó hẳn chỉ là định kiến dập khuôn bởi “The Artist” hoàn toàn là một bộ phim như thế. “The Artist” không có những twist lồng twist bất ngờ để ta phải ồ à, há hốc mồm. Cũng không có những pha hành động máu lửa để câu khách. Các nhà làm phim cũng không hề biến nền công nghiệp điện ảnh thành cái gì bi kịch, giật gân. “The Artist” cũng không khó hiểu đến nỗi khán giả xem xong chả hiểu nổi. Vậy, bộ phim này có gì?

Phim đặc biệt ở chỗ nó loại bỏ tất cả các yếu tố gây phân tâm cho khán giả như màu sắc, tiếng động nhỏ nhặt hay thậm chí là những đoạn hội thoại không cần thiết để khán giả chỉ tập trung vào nội dung và diễn xuất. Là phim câm, “The Artist” có lối kể chuyên rất riêng. Người diễn viên khi nhập vai hẳn phải chịu rất nhiều thách thức khi không thể biểu hiện quá lố cảm xúc để người xem dễ chú ý, cũng không thể giấu quá kỹ biểu cảm để rồi người xem không nhận ra rằng nhân vật đang vui hay buồn, hơn nữa, người diễn viên cũng không thể dùng câu thoại để thể hiện mình. Thế nhưng, với màn trình diễn xuất sắc của Jean Dujardin và Bérénice Bejo, ta có thể khẳng định rằng im lặng không bao giờ là một chướng ngại vật quá lớn. Jean và Bérénice đều hóa thân trở thành những người nghệ sỹ chân chính, hoạt bát và cá tính nhưng cũng rất thường, rất đời. Cũng chính nhờ việc chỉ cần ngôn ngữ hình thể mà người ta không cần tuyển diễn viên ở cùng một quốc gia, không cần có chất giọng phù hợp với nhân vật họ nhập vai. Chính vì vậy mà mặc dù lấy bối cảnh ở Hollywood hào nhoáng nhưng hai diễn viên chính lại mang quốc tịch Pháp và Argentina.

Một yếu tố thành công khác của “The Artist” chính là nhạc phim tuyệt vời. Chính vì không thể biểu hiện quá lộ liễu cảm xúc, không thể nói lời thoại nên nhạc phim lại có một vị trí vô cùng quan trọng – quan trọng hơn nhiều so với vị trí của nó trong dòng phim hiện đại. Nhạc trong phim có tác dụng rất lớn trong việc dẫn dắt, điều khiển nhịp phim, đồng thời cũng bộc lộ tinh tế tính cách, cảm xúc nhân vật. Khi George thành công, ta nghe được hòa thanh vui nhộn, hối thúc của cả dàn nhạc. Ở những phân cảnh đầu tiên của Peppy Miller, ta lại cảm nhận được nét hóm hỉnh, mộng mơ nhưng cũng đầy nữ tính của giai điệu. Khi George và Peppy khiêu vũ, nhìn sâu vào đôi mắt nhau và nảy sinh tình cảm, ta lại thấy những giai điệu nhẹ nhàng, tế nhị của tình yêu. Và ta cũng ứa nước mắt khi George mất tất cả, trở về trong căn buồng chật hẹp, nghĩ về hào quang quá khứ và anh của hiện tại. Tiếng nhạc buồn bã, xót xa vang lên.

“The Artist” không hề giống những bộ phim đạt giải “Phim xuất sắc nhất” của Viện Hàn Lâm trong những năm gần đây, có lẽ cũng bởi vị đạo diễn người Pháp Michel Hazanavicius đã làm những điều mà chẳng ai trong những cộng sự Hollywood của ông dám làm. Ông đã tìm về “quá khứ tươi đẹp”, tìm về những giá trị mà lâu nay bị lãng quên. Câu chuyện của George trong phim hẳn cũng giống chúng ta, luôn phải tập quen và thích nghi với những thứ mới mẻ để tồn tại và phát triển. Rõ ràng, phim không hề chê bai hay phản đối nền công nghiệp điện ảnh hiện đại với những thước phim màu sắc nét, rực rỡ cùng âm thanh, kỹ xảo đẹp mắt. “The Artist” là một cái quay đầu lại đằng sau để nhìn thấy nơi ta bắt đầu, tìm lại những vẻ đẹp thuần khiết, nguyên sơ của điện ảnh ta từng có, để từ đó tiếp tục kế thừa và phát triển cho tương lai.

Để nâng cao khả năng cảm nhận văn học của bản thân đừng quên tham khảo thêm bộ đề Văn lớp 11 kì 2 & kì 1 SGK Chân Trời Sáng Tạo dưới đây.

Mong rằng những tài liệu hướng dẫn soạn, giải vở bài tập 11 tập 2, tập 1 mà Giaibaitapsgk cung cấp sẽ giúp các em học sinh rút ngắn thời gian học tập. Bộ đề thi học sinh giỏi: Đề thi học sinh giỏi 11 cấp huyện, Đề thi học sinh giỏi môn lớp 11 cấp thành phố,.... giúp các em học sinh nâng cao khả năng của bản thân, đồng thời cũng là tài liệu tham khảo siêu hữu ích.

Bài viết liên quan